Description
Các Huấn Thị Islam Giúp Cải Thiện Cá Nhân Và Cộng Đồng: Quyển sách tập hợp nhiều chủ đề hữu ích khác nhau về Islam, chủ yếu mang tính huấn thị nhằm giúp cải thiện cá nhân và cộng đồng.
Các bản dịch khác 2
] Tiếng Việt – Vietnamese – فيتنامية [
https://islamhouse.com/385549
Các Huấn Thị Islam Giúp Cải Thiện Cá Nhân Và Cộng Đồng 1
توجيهات إسلامية لإصلاح الفرد والمجتمع 1
Ngàn lời ca ngợi và Ngàn lời tán dương kính dâng lên Allah, Đấng Chủ Tể của toàn vũ trụ. 15
Các Trụ Cột Islam 20
Thiên sứ của Allah, Muhammad e, nói: Islam được dựng trên năm trụ cột cơ bản: 20
Các Trụ Cột Của Đức Tin Iman 21
Hãy Thi Hành Theo Những Lời Di Huấn Của Thiên Sứ Muhammad e 23
Các Lời Di Huấn Liên Quan Đến Thiên Sứ Muhammad e 29
Những Gì Thiên Sứ e Mang Đến Cho Các Người Thì Các Người Hãy Nhận Lấy Nó! 35
“Du-a() Là Hình Thức Thờ Phượng" 41
Allah Ở Đâu? 64
Tóm tắt 68
Allah Ngự Trên Chiếc Ngai Vương 70
Những Điều Hủy Hoại Islam 78
Đừng Thề Thốt Với Ai (Vật) Khác Ngoài Allah! 95
Đừng Tin Lời Những Kẻ Dối Gạt 97
Ân Phúc Của Các Lễ Nguyện Salah Và Sự Chu Đáo Trong Dâng Lễ 100
Hãy Học Cách Wudu Và Dâng Lễ Nguyện Salah 105
Qul huwollo-hu Ahad, Ollo-hus samad, lam yalid walam yu-lad, wa lam yakullahu kufuwan Ahad. 110
Rak-at thứ hai 113
Các Giáo Luật Về Lễ Nguyện Salah 118
Các Hadith Về Lễ Nguyện Salah 121
Lễ Nguyện Salah Al-Jum'ah Và Salah Tập Thể Là Điều Bắt Buộc 126
Cách Tôi Dâng Lễ Nguyện Salah Al-Jum'ah 133
Bạn Dâng Lễ Nguyện Salah Cho Người Chết Như Thế Nào? 135
Lời Khuyên Về Cái Chết 137
Hãy Thận Trọng Với Việc Đi Ngang Trước Mặt Người Đang Dâng Lễ Nguyện Salah 139
Nhịn Chay Và Những Lợi Ích Của Nó 146
Những Điều Cần Làm Trong Tháng Ramadan 150
Ân Phúc Của Hành Hương Hajj & Umrah 157
Các Việc Làm Cho Nghi Thức Umrah 164
Những Việc Làm Của Nghi Thức Hajj() 170
Một Số Phép Tắc Đạo Đức Khi Thực Hiện Nghi Thức Hajj. 176
Cách Thức Thăm Viếng Masjid Nabawi 179
Bản Chất Và Nhân Cách Của Vị Thiên Sứ Cao Quý, Muhammad e 184
Phẩm Chất Đạo Đức Của Thiên Sứ e 188
Sự Truyền Bá Tôn Giáo Và Sự Đấu Tranh của Nabi Muhammad e 193
Tình Yêu Và Sự Tuân Theo Người e 199
Chúng Ta Trông Nom Và Dạy Dỗ Con Cái Như Thế Nào? 204
Dạy Con Cái Dâng Lễ Nguyện Salah 210
Cảnh Báo Con Cái Những Điều Haram 213
Dạy Con Cái Ăn Mặc Kín Đáo Và Hijab 218
Rèn Dạy Con Cái Tác Phong Và Đức Tính Tốt 222
Rèn Dạy Con Cái Tinh Thần Đấu Tranh Và Dũng Cảm 226
Hiếu Thảo Với Cha Mẹ 229
Tránh Xa Những Đại Tội 239
Các Loại Đại Tội 241
Hãy Bám Theo Các Học Giả Thông Qua Các Hadith 249
Những Lời Nói Của Các Vị Imam Về Hadith 256
Hãy Tuân Thủ Và Chớ Đừng Làm Điều Bid'ah 261
Một Số Việc Làm Bid'ah 267
Kêu Gọi Làm Việc Tốt Và Ngăn Cản Làm Điều Xấu 268
Một Số Hình Thức Kêu Gọi Mọi Người Làm Điều Tốt 271
Các Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Kêu Gọi Người Làm Điều Tốt Và Ngăn Cản Làm Điều Xấu 273
Một Số Việc Làm Không Đúng Phải Được Cản Ngăn 279
Jihad Cho Con Đường Chính Nghĩa Của Allah 284
Jihad có nhiều dạng: 284
Di Chúc Được Giáo Luật Qui Định Đối Với Mỗi Người Muslim 297
Những Điều Bị Giáo Luật Nghiêm Cấm 305
Để Râu Cằm Là Bắt Buộc 310
Ý Nghĩa Từ Hadith Trên 311
Đừng Đổ Lỗi Cho Số Phận 315
Hãy Là Huynh Đệ Với Nhau Trong Việc Thờ Phượng Allah!!! 317
Các Hadith Về Người Muslim 320
Du-a Al-Istikha-rah() 325
Du-a Xin Được Khỏi Bệnh 329
Du-a Khi Đi Xa 334
Lời Du-a Được Đáp Lại 340
Bài Du-a Cho Người Thất Lạc Và Bị Thất Lạc Đồ Đạc 343
Những Nguyên Nhân Cho Sự Thắng Lợi 345
Các Đặc Điểm Căn Bản Của Islam 348
Islam Là Một Hệ Thống Nguyên Tắc Toàn Diện Cho Cuộc Sống 353
Islam Tôn Vinh Phụ Nữ 357
Một Số Lời Nói Của Nhà Đông Phương Học Về Islam 361
Một Người Mỹ Đã Tâm Sự Về Sự Lựa Chọn Islam Của Mình 363
Một Phụ Nữ Mỹ Gia Nhập Islam 369
Lời Phát Biểu Của Một Ca Sĩ Tầm Cỡ Quốc Tế 377
Giáo Luật Islam Về Ca Hát Và Âm Nhạc 382
Tác Hại Của Ca Hát Và Âm Nhạc 386
Sự Thật Về Việc Đánh Trống Trong Lúc Tụng niệm 389
Ca Hát Trong Thời Đại Ngày Nay 396
Sự Cám Dỗ Của Phụ Nữ Có Chất Giọng Tốt 399
Ca Hát Làm Mọc Lên Đạo Đức Giả 401
Cách Điều Trị Ca Hát Và Âm Nhạc 403
Ca Hát Được Giáo Luật Cho Phép 405
Tóm Tắt 411
Giáo Luật Islam Về Tranh Vẽ Và Những Bức Tượng Điêu Khắc 412
Những Tai Hại Của Tranh Ảnh Và Tượng 419
Tranh Ảnh Có Giống Như Tượng Không? 425
Các Tranh Ảnh Và Tượng Được Phép Trong Giáo Luật 429
Thuốc Lá Có Haram (Bị Cấm) Không? 432
Các Lời Du-a Từ Qur'an Al-Karim 439
ﭑ ﭒ ﭓ ﭔ
إِنَّ الحَمْدُ لِلهِ نَحْمَدُهُ وَنَسْتَعِيْنُهُ وَنَسْتَغْفِرُهُ ، وَنَعُوْذُ بِاللهِ مِنْ شُرُوْرِ أَنْفُسِنَا وَمِنْ سَيِّئَاتِ أَعْمَالِنَا ، مَنْ يَهْدِ اللهُ فَلاَ مُضِلَّ لَهُ ، وَ مَنْ يُضْلِلْ فَلاَ هَادِيَ لَهُ.
وَأَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيكَ لَهُ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ
ﮋيَاأَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا اتَّقُوا اللَّهَ حَقَّ تُقَاتِهِ وَلا تَمُوتُنَّ إِلا وَأَنْتُمْ مُسْلِمُونَ ﮊ
ﮋيَاأَيُّهَا النَّاسُ اتَّقُوا رَبَّكُمُ الَّذِي خَلَقَكُمْ مِنْ نَفْسٍ وَاحِدَةٍ وَخَلَقَ مِنْهَا زَوْجَهَا وَبَثَّ مِنْهُمَا رِجَالا كَثِيرًا وَنِسَاءً وَاتَّقُوا اللَّهَ الَّذِي تَسَاءَلُونَ بِهِ وَالأرْحَامَ إِنَّ اللَّهَ كَانَ عَلَيْكُمْ رَقِيبًاﮊ
ﮋيَاأَيُّهَا الَّذِينَ آمَنُوا اتَّقُوا اللَّهَ وَقُولُوا قَوْلا سَدِيدًا يُصْلِحْ لَكُمْ أَعْمَالَكُمْ وَيَغْفِرْ لَكُمْ ذُنُوبَكُمْ وَمَنْ يُطِعِ اللَّهَ وَرَسُولَهُ فَقَدْ فَازَ فَوْزًا عَظِيمًاﮊ
أَمَّا بَعْدُ فَإِنَّ أَصْدَقَ الحَدِيْثِ كِتَابُ اللهِ تَعَالَى، وَخَيْرَ الهَدْيِ هَدْيُ مُحَمَّدٍ، وَشَرَّ الأُمُوْرِ مُحْتَثَاتُهَا. وَكُلُّ مُحْتَثَةٍ بِدْعَةٌ. وَكُلُّ بِدْعَةٍ ضَلاَلَةٌ. وَكُلُّ ضَلاَلَةٍ فِيْ النَّارِ.
Bề tôi xin tạ ơn Ngài, xin Ngài phù hộ độ trì, xin Ngài tha thứ tội lỗi và xin Ngài che chở tránh khỏi những điều xấu từ bản thân bề tôi, những điều sai quấy từ hành động của bề tôi.
Người nào được Allah hướng dẫn sẽ không bao giờ bị lạc lối, và người nào bị Ngài làm cho lệch lạc thì sẽ không thể tìm thấy sự hướng dẫn.
Bề tôi xin chứng nhận không có Đấng nào khác đáng được thờ phượng ngoài Allah, chỉ duy nhất một mình Ngài, không có đối tác cùng Ngài, và bề tôi xin chứng nhận Muhammad là người bề tôi và là vị Sứ giả của Ngài.
{Hỡi những người có đức tin! Hãy thật sự kính sợ Allah và hãy chết trong con đường Islam} (Chương 3 - 'Ali-'Imran, câu 102)
{Này hỡi nhân loại! Hãy kính sợ Thượng Đế của các ngươi, Đấng đã tạo hóa các ngươi từ một cá thể duy nhất (Adam) và từ y Ngài tạo ra người bạn đời của y (Hauwa) và từ hai người họ Ngài đã cho rải ra vô số đàn ông và đàn bà. Và hãy kính sợ Allah, Đấng mà các ngươi đòi hỏi (quyền hạn) lẫn nhau và hãy kính trọng những dạ con bởi vì quả thật Allah luôn quan sát các ngươi} (Chương 4 – Annisa', câu 1)
{Hỡi những ai có đức tin! Hãy kính sợ Allah và hãy ăn nói thật thà và đúng đắn. Ngài sẽ cải thiện hành động của các ngươi và sẽ tha thứ tội lỗi cho các ngươi; và ai vâng lệnh Allah và Sứ giá của Ngài thì chắc chắn sẽ thành đạt vẻ vang} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 70, 71).
Quả thật, lời nói chân lý nhất là kinh sách của Allah, Đấng Tối Cao, sự hướng dẫn tốt nhất đó là sự hướng dẫn của Nabi Muhammad e, và điều xấu xa và tội lỗi nhất đó là những điều cải biên và đổi mới. Và Tất cả mọi điều cải biên và đổi mới đều là việc làm Bid-'ah. Và mọi việc làm Bid-'ah đều lầm lạc và mọi sự lầm lạc đều dẫn đường đến Hỏa ngục.([1])
Và quyển sách này là một tập hợp về những vấn đề quan trọng khác nhau được trình bày ngắn gọn, rất hữu ích cho mỗi tín đồ Muslim, nam cũng như nữ. Và mục tiêu của tôi là muốn góp phần cải thiện cá nhân và cộng đồng dưới sự cho phép của Allah.
Muhammad bin Jami-l Zaynu
* * *
dkf
1- Shaha-dah (lời chứng nhận):
“أَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ وَ أَنَّ مُحَمَّدًا رَسُولُ اللهِ"
“Không có Đấng Thờ phượng đích thực nào khác ngoài Allah và Muhammad là vị Sứ giả (Thiên sứ) của Allah". Có nghĩa là (Không có Đấng nào đáng để thờ phượng mà chỉ có duy nhất một mình Allah, và Muhammad là vị nhận thông điệp từ Allah mang rao truyền cho nhân loại).
2- Dâng lễ nguyện Salah (một cách chu đáo và trang nghiêm).
3- Đóng Zakah (phần đóng góp bắt buộc hàng năm để hỗ trợ cho những người nghèo đối với những ai thuộc diện dư dả. Mức đóng là 2,5 % tổng tài sản có được trong một năm).
4- Đi hành hương Hajj đến ngôi đền Ka'bah (đối với ai có khả năng và điều kiện)
5- Nhịn chay tháng Ramadan (nhịn ăn, nhịn uống, nhịn “sinh hoạt vợ chồng" từ lúc rạng đông cho đến khi mặt trời lặn với định tâm Ni-yah).
(Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó)
1- Tin nơi Allah: (Tin vào sự hiện hữu Ngài, tin Ngài là Đấng duy nhất trong việc chế ngự mọi vạn vật và vũ trụ và Ngài là Đấng duy nhất đáng được thờ phượng)
2- Tin nơi các thiên thần của Ngài: (Các thiên thần là những tạo vật của Allah được tạo ra từ ánh sáng; họ được tạo ra để phụng sự và thi hành mệnh lệnh của Allah).
3- Tin vào các kinh sách của Ngài: (Như Kinh Tawrah, Kinh Inji-l, Kinh Zabu-ﷺ và Kinh Qur'an là kinh sách tốt hơn hết).
4- Tin vào các vị Sứ giả (Thiên sứ) của Ngài: (Vị Sứ giả đầu tiên trong các vị Sứ giả là Nabi Nuh u và vị cuối cùng trong số họ là Nabi Muhammad e)
5- Tin vào Ngày Tận thế: (Còn được gọi là Ngày Phục sinh để chịu sự xét xử của Allah).
6- Tin vào số mệnh tốt và xấu được định sẵn (Nhưng phải luôn tìm lấy nguyên nhân; hài lòng với số mệnh tốt hay xấu bởi vì đó là sự tiền định của Allah).
* * *
1- «لاَ تَقُومُ السَّاعَةُ حَتَّى يُقَاتِلَ الْمُسْلِمُونَ الْيَهُودَ فَيَقْتُلُهُمُ الْمُسْلِمُونَ» (رواه مسلم)
1- “Giờ tận thế sẽ không xảy đến cho tới khi nào người Muslim chiến đấu với người Do thái, rồi người Muslim tiêu diệt hết bọn họ" (Muslim)
2- « مَنْ قَاتَلَ لِتَكُونَ كَلِمَةُ اللهِ هِىَ الْعُلْيَا فَهُوَ فِى سَبِيلِ اللهِ عَزَّ وَجَلَّ » (رواه البخاري)
2- “Ai chiến đấu vì muốn giơ cao khẩu hiệu của Allah thì người đó thực sự chiến đấu vì con đường của Allah, Đấng Tối Cao" (Albukhari).
3- «مَنْ أَرْضَى النَّاسَ بِسَخَطِ اللهِ وَكَلَهُ اللهُ إِلَى النَّاسِ» (حديث حسن رواه الترمذي)
3- “Ai làm hài lòng thiên hạ bất chấp sự phẫn nộ của Allah thì Allah sẽ bỏ mặt người đó cùng với thiên hạ" (Hadith tốt do Tirmizhi ghi lại).
4- « مَنْ مَاتَ وَهْوَ يَدْعُو مِنْ دُونِ اللهِ نِدًّا دَخَلَ النَّارَ » (رواه البخاري)
4- “Ai chết đi trong lúc y vẫn còn cầu nguyện khấn vái thần linh nào khác ngoài Allah sẽ bị đày vào Hỏa ngục" (Albukhari).
5- « مَنْ كَتَمَ عِلْماً أَلْجَمَهُ اللهُ بِلِجَامٍ مِنْ نَارٍ » (حديث صحيح رواه أحمد)
5- “Người nào giấu giếm kiến thức (tôn giáo), Allah sẽ giam cầm y trong Hỏa ngục" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
6- « مَنْ لَعِبَ بِالنَّرْدِ فَقَدْ عَصَى اللهَ وَرَسُولَهُ » (حديث صحيح رواه أحمد)
6- “Ai chơi cờ thỏ cáo([2]) thì xem như người đó đã nghịch lại Allah và Thiên sứ của Ngài" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
7- « بَدَأَ الإِسْلاَمُ غَرِيبًا وَسَيَعُودُ كَمَا بَدَأَ فَطُوبَى لِلْغُرَبَاءِ » (رواه مسلم)
7- “Islam lúc khởi đầu đã là điều kỳ lạ và nó sẽ trở lại kỳ lạ y như lúc khởi đầu. Bởi thế, sẽ là một điều tốt đẹp cho những người kỳ lạ". “Những người kỳ lạ" ý nói những người ngoan đạo trở nên ít đi trong đại đa số những người không ngoan đạo, những người làm điều tội lỗi. (Muslim)
8- « طُوبَى لِلْغُرَبَاءِ ». فَقِيلَ مَنِ الْغُرَبَاءُ يَا رَسُولَ اللهِ قَالَ « أُنَاسٌ صَالِحُونَ فِى أُنَاسِ سَوْءٍ كَثِيرٍ مَنْ يَعْصِيهِمْ أَكْثَرُ مِمَّنْ يُطِيعُهُمْ » (حديث صحيح رواه أحمد)
8- “Phúc thay cho những người kỳ lạ". Có lời hỏi: những người kỳ lạ là ai vậy thưa Thiên Sứ của Allah? Người bảo: “Những người ngoan đạo nằm trong đại đa số những người xấu và tội lỗi. Số người nghịch lại họ (những người ngoan đạo) nhiều hơn số người đi theo họ" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại)
9- « لاَ طَاعَةَ فِى مَعْصِيَةِ اللهِ إِنَّمَا الطَّاعَةُ فِى الْمَعْرُوفِ » (رواه البخاري)
9- “Không có bất kỳ điều vâng lời nào nằm trong sự nghịch lệnh Allah, mà điều vâng lời chỉ nằm trong nguyên tắc đạo đức của sự quy thuận" (Albukhari).
10- « آيَةُ الْمُنَافِقِ ثَلاَثٌ إِذَا حَدَّثَ كَذَبَ ، وَإِذَا وَعَدَ أَخْلَفَ ، وَإِذَا اؤْتُمِنَ خَانَ » (رواه البخاري ومسلم)
10- “Ba đặc điểm của người đạo đức giả là khi nói thì dối trá, khi giao hẹn thì không giữ lời, và khi được ủy thác thì bội tín" (Albukhari, Muslim).
1- « إِنّيْ قَدْ تَرَكْتُ فِيْكُمْ مَا إِنْ اِعْتَصَمْتُمْ بِهِ فَلِنْ تَضِلُّوا أَبَدَا، كِتَابُ اللهِ وَ سُنَّةِ نَبِيِّهِ » (حديث صحيح رواه حاكم)
1- “Quả thật, ta đã để lại cho các người một thứ mà nếu các người bám dính lấy nó thì các người sẽ không bao giờ bị lầm lạc, đó là Kinh sách của Allah (Qur'an) và Sunnah (đường lối) Nabi của Ngài" (Hadith xác thức do Hakim ghi lại).
2- « عَلَيْكُمْ بِسُنَّتِى وَسُنَّةِ الْخُلَفَاءِ الرَّاشِدِينَ الْمَهْدِيِّينَ تَمَسَّكُوا بِهَا » (حديث صحيح رواه أحمد)
2- “Các người phải bám dính đường lối của ta và đường lối của các vị Khali-fah (người kế vị lãnh đạo các tín đồ Muslim sau Nabi Muhammad) chính trực, được hướng dẫn đi đúng đường sau ta. Hãy cố giữ lấy nó!" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
3- « يَا فَاطِمَةُ بِنْتُ مُحَمّدٍ سَلِيْنِيْ مِنْ مَالِيْ مَا شِئْتِ لَا أُغْنِيْ عَنْكِ مِنَ اللهِ شَيْئَا » (رواه البخاري)
3- “Này hỡi Fatimah con gái của Muhammad! Con cứ đòi hỏi cha bất cứ của cải nào con muốn nhưng cha không thể giúp ích được gì cho con khi trình diện với Allah" (Albukhari)
4- « مَنْ أَطَاعَنِى فَقَدْ أَطَاعَ اللهَ ، وَمَنْ عَصَانِى فَقَدْ عَصَى اللهَ» (رواه البخاري)
4- “Ai vâng lệnh ta tức đã vâng lệnh Allah, còn ai nghịch lại lệnh ta tức đã nghịch lại lệnh Allah" (Albukhari).
5- « لاَ تُطْرُونِى كَمَا أَطْرَتِ النَّصَارَى ابْنَ مَرْيَمَ ، فَإِنَّمَا أَنَا عَبْدُهُ، فَقُولُوا عَبْدُ اللهِ وَرَسُولُهُ » (رواه البخاري)
5- “Các người đừng quá ca ngợi ta (đến nỗi tôn thờ ta) giống như những người Thiên chúa giáo đã quá ca ngợi con trai của Maryam (Nabi Ysa u tức Giê-su), bởi quả thật ta chỉ là một người bề tôi. Do đó, các người hãy nói: Người bề tôi của Allah và Thiên sứ của Ngài." (Albukhari).
6- « قَاتَلَ اللهُ الْيَهُودَ اتَّخَذُوا قُبُورَ أَنْبِيَائِهِمْ مَسَاجِدَ » (رواه البخاري)
6- “Allah đã tiêu diệt những người Do thái bởi họ đã lấy mồ mả các vị Nabi của họ làm nơi cầu nguyện" tức họ đã chôn cất các vị Nabi của họ trong Masjid (nơi dâng lễ cầu nguyện Allah) (Albukhari).
7- « مَنْ تَقَوَّلَ عَلَىَّ مَا لَمْ أَقُلْ فَلْيَتَبَوَّأْ مَقْعَدَهُ مِنَ النَّارِ» (حديث صحيح رواه أحمد)
7- “Ai bịa đặt và thêu dệt những gì mà ta không nói thì người đó đã sẵn sàng để sống trong Hỏa ngục" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
8- « إِنِّيْ لَا أُصَافِحُ النِّسَاءَ » (حديث صحيح رواه الترمذي)
8- “Quả thật, ta không bắt tay phụ nữ" tức không bắt tay những phụ nữ được phép lấy làm vợ. (Hadith xác thực do Tirmizhi ghi lại).
9- « فَمَنْ رَغِبَ عَنْ سُنَّتِى فَلَيْسَ مِنِّى » (رواه البخاري)
9- “Người nào ghét bỏ đường lối của ta thì y không phải tín đồ của ta" (Albukhari).
10- « اللَّهُمَّ إِنِّى أَعُوذُ بِكَ مِنْ عِلْمٍ لاَ يَنْفَعُ » (رواه مسلم)
10- “Lạy Thượng Đế, quả thật bề tôi xin Ngài giúp bề tôi tránh khỏi những kiến thức không bổ ích" tức xin Ngài giúp bề tôi tránh khỏi việc có kiến thức nhưng không thực hành theo, không dạy lại cho người và cũng không cải thiện đạo đức của bề tôi. (Muslim).
* * *
1- « لَعَنَ اللهُ النَّامِصَاتِ وَالْمُتَنَمِّصَاتِ الْمُغَيِّرَاتِ لِخَلْقِ اللهِ » (متفق عليه)
1- “Allah nguyền rủa người nhổ và người được nhổ lông mặt, những người thay đổi sự tạo hóa của Allah" (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).
2- « وَنِسَاء كَاسِيَات عَارِيَات مُمِيلَات مَائِلَات رُءُوسهنَّ كَأَسْنِمَةِ الْبُخْت الْمَائِلَة لَا يَدْخُلْنَ الْجَنَّة » (حديث صحيح رواه أحمد)
2- “Và những phụ nữ ăn mặc bó sát người và không kín đáo, những phụ nữ tìm cách quyến rũ nam giới, những phụ nữ làm đầu của mình như cái bướu con lạc đà (tức bới những kiểu tóc cao trên đầu theo thời nay) sẽ không được vào Thiên Đàng" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
3- « اتَّقُوا اللهَ وَأَجْمِلُوا فِى الطَّلَبِ » (حديث صحيح رواه حاكم)
3- “Hãy kính sợ Allah và hãy sống tốt trong việc tìm kiếm Rizq (bổng lộc của Allah)" tức hãy tìm lấy những gì Halal (được phép) và bỏ đi những gì Haram (bị nghiêm cấm) (Hadith xác thực do Hakim ghi lại).
4- « ارْبَعُوا عَلَى أَنْفُسِكُمْ إِنَّكُمْ لَيْسَ تَدْعُونَ أَصَمَّ وَلاَ غَائِبًا » (رواه مسلم)
4- “Các người hãy nhỏ tiếng trong việc tụng niệm và cầu nguyện, bởi quả thật, các người không phải đang cầu nguyện đến Đấng bị điếc không nghe thấy gì hay Đấng không hiện diện trước mặt" (Muslim).
5- « أَشَدُّ النَّاسِ بَلاَءً الأَنْبِيَاءُ ثُمَّ الصَّالِحُونَ » (حديث صحيح رواه ابن ماجه)
5- “Những người bị thử thách nạn kiếp nặng nhất đó là những vị Nabi, kế đến là những người ngoan đạo" (Hadith xác thực do Ibn Ma-jah ghi lại).
6- « صِلْ مَنْ قَطَعَكَ، وأَحْسِنْ إِلىَ مَنْ أَسَاءَ إِلَيْكَ، وَقُلِ الحَقَ وَلَوْ عَلىَ نَفْسِكَ » (حديث صحيح رواه ابن النجار)
6- “Hãy nối lại quan hệ với những ai đã cắt đứt với ngươi, hãy đối xử tốt đẹp đến những ai đã làm điều xấu với ngươi, và hãy nói lên sự thật cho dù sự thật đó có phũ phàng cho ngươi" (Hadith xác thực do Ibn Annajjar ghi lại).
7- « تَعِسَ عَبْدُ الدِّينَارِ وَالدِّرْهَمِ وَالْقَطِيفَةِ ، إِنْ أُعْطِىَ رَضِىَ، وَإِنْ لَمْ يُعْطَ لَمْ يَرْضَ » (رواه البخاري)
6- “Thật đáng thương và tồi tệ cho kẻ làm nô lệ đồng tiền và nhung lụa, nếu được cho thì hài lòng còn không được cho thì bất mãn" (Albukhari).
8- « أَوَلاَ أَدُلُّكُمْ عَلَى شَىْءٍ إِذَا فَعَلْتُمُوهُ تَحَابَبْتُمْ أَفْشُوا السَّلاَمَ بَيْنَكُمْ » (رواه مسلم)
8- “Để ta chỉ cho các người một điều mà khi các người thực hiện nó thì các người sẽ yêu mến nhau: Các người hãy chào Salam đến nhau" (Muslim).
9- « كُنْ فِى الدُّنْيَا كَأَنَّكَ غَرِيبٌ ، أَوْ عَابِرُ سَبِيلٍ » (رواه البخاري)
9- “Ngươi hãy sống trên thế gian như thể ngươi là người lạ từ nơi khác đến, hoặc như thể ngươi là khách vãng lai đến rồi đi" (Albukhari).
10- « مَنِ الْتَمَسَ رِضَاءَ اللهِ بِسَخَطِ النَّاسِ كَفَاهُ اللهُ مُؤْنَةَ النَّاسِ» (رواه الترمذي)
10- “Người nào luôn bám chặt lấy sự hài lòng của Allah cho dù có bị người đời phẫn nộ thì Allah sẽ phù hộ người đó khỏi sự nguy hại của người đời" (Do Tirmizhi ghi lại).
11- « لاَ يُقِيمُ الرَّجُلُ الرَّجُلَ مِنْ مَقْعَدِهِ ثُمَّ يَجْلِسُ فِيهِ وَلَكِنْ تَفَسَّحُوا وَتَوَسَّعُوا » (رواه مسلم)
11- “Không một người nào có quyền bắt một ai khác đứng dậy khỏi chỗ ngồi của y để mình ngồi vào chỗ đó, tuy nhiên, hãy nới rộng ra để có chỗ cho nhau ngồi!" (Muslim)
* * *
Đây là lời di huấn xác thực được học giả Tirmizhi ghi lại. Lời di huấn này đã chỉ rõ rằng Du-a là một hình thức thờ phượng quan trọng nhất trong các hình thức thờ phượng. Do đó, nếu việc dâng lễ nguyện Salah không được phép thực hiện hướng đến Thiên sứ Muhammad e hay những vị lãnh tụ ngoan đạo thì việc Du-a cũng tương tự như vậy, không ai được phép Du-a đến Thiên sứ cũng như các vị lãnh tụ ngoan đạo, hay một ai (vật gì) khác ngoài Allah.
1- Một người Muslim khi nói: Này hỡi Thiên sứ của Allah hay này hỡi những ai đó đã khuất để mong được phúc lành và sự phù hộ thì đó là Du-a, một hình thức thờ phượng những ai khác ngoài Allah, cho dù trong lòng y định tâm rằng Allah mới là Đấng ban phúc và phù hộ. Thí dụ cho điều này như một người nói: Tôi dâng lễ nguyện Salah vì Thiên sứ của Allah hay vì một vị lãnh tụ ngoan đạo nào đó, nhưng trong lòng, y định tâm lễ nguyện Salah này là vì Allah, thì cuộc dâng lễ nguyện đó sẽ không được Allah chấp nhận bởi vì lời nói của y khác với sự định tâm của y. Bởi vậy, lời nói và tâm niệm phải đi chung với nhau, nếu không sẽ rơi vào tội danh Shirk, một đại tội mà Allah không bao giờ tha thứ trừ phi đã thực sự sám hối và quay về với Ngài.
2- Nếu người Muslim này lại cho rằng: Thật ra tôi chỉ tâm niệm lấy Thiên sứ của Allah hay vị lãnh tụ ngoan đạo nào đó để làm vị trung gian đến với Allah mà thôi, giống như một vị thủ tướng, tôi không thể trực tiếp vào gặp ông ta mà phải có một người trung gian làm chiếc cầu nối cho tôi đến với ông ta.
Đây là sự so sánh Đấng Tạo Hóa như một tạo vật của Ngài. Tại sao lại dám đem một tạo vật bất công (không ai được gặp hắn ngoại trừ phải có kẻ trung gian làm chiếc cầu nối) so sánh với một Đấng Tạo Hóa tuyệt đối công bằng. Đây là một sự so sánh của những kẻ ngoại đạo, những kẻ phủ nhận Allah.
Allah, Đấng Tối Cao, đã thanh lọc bản chất, các thuộc tính và các hành động của Ngài, Ngài phán:
ﮋلَيۡسَ كَمِثۡلِهِۦ شَيۡءٞۖ وَهُوَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡبَصِيرُ ﮊ (سورة الشورى: 11)
{Không có bất kỳ thứ gì giống Ngài, và Ngài là Đấng hằng nghe và hằng thấy} (Chương 42 – Ash-Shura, câu 11).
Việc so sánh Allah với một tạo vật công bằng đã là điều Kufr (vô đức tin) và Shirk (tội gán ghép với Allah một đối tác ngang hàng) thì làm sao con người lại dám đem Ngài so đo với một kẻ bất công ? Allah là Đấng Vĩ đại hơn những gì vĩ đại, tối cao hơn những gì tối cao.
3- Quả thật, những người thờ đa thần trong thời của Thiên sứ của Allah cũng thừa nhận và cho rằng Allah là Đấng Tạo Hóa, Đấng ban cấp Rizqi (nguồn nuôi dưỡng mọi sự sống), tuy nhiên, họ vẫn cầu nguyện khấn vái những vị thánh được tạc thành các bức tượng với ý nghĩ rằng chúng sẽ làm chiếc cầu nối cho họ đến gần Allah. Nhưng Allah đâu có chấp nhận những thứ trung gian đó (thần thánh) của họ, ngược lại, Ngài đã phủ nhận họ, Ngài phán:
ﮋوَٱلَّذِينَ ٱتَّخَذُواْ مِن دُونِهِۦٓ أَوۡلِيَآءَ مَا نَعۡبُدُهُمۡ إِلَّا لِيُقَرِّبُونَآ إِلَى ٱللَّهِ زُلۡفَىٰٓ إِنَّ ٱللَّهَ يَحۡكُمُ بَيۡنَهُمۡ فِي مَا هُمۡ فِيهِ يَخۡتَلِفُونَۗ إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَهۡدِي مَنۡ هُوَ كَٰذِبٞ كَفَّارٞ ﮊ (سورة الزمر: 3)
{Và những kẻ đã nhận lấy những vị thánh ngoài Ngài cho rằng chúng tôi không thờ phượng họ mà chỉ nhờ họ đưa chúng tôi đến gần với Allah mà thôi. Quả thật, Allah sẽ xét xử giữa bọn chúng về điều mà chúng tranh cãi. Quả thật, Allah sẽ không hướng dẫn ai nói dối và không có đức tin} (Chương 39 – Al-Zumar, câu 3).
Và Allah, Đấng Tối Cao, luôn gần kề và hằng nghe thấy tất cả mọi điều và mọi sự việc, Ngài không cần đến kẻ trung gian, Ngài phán:
ﮋوَإِذَا سَأَلَكَ عِبَادِي عَنِّي فَإِنِّي قَرِيبٌۖﮊ (سورة البقرة : 187)
{Và khi nào bầy tôi của TA hỏi Ngươi (Muhammad) về TA thì Ngươi hãy bảo họ: Quả thật, TA luôn gần kề} (Chương 2 – Albaqarah, câu 187).
4- Quả thật, những người thờ đa thần này, họ cũng đã cầu nguyện, khấn vái riêng Allah mỗi khi họ gặp đại nạn. Allah phán:
ﮋوَجَآءَهُمُ ٱلۡمَوۡجُ مِن كُلِّ مَكَانٖ وَظَنُّوٓاْ أَنَّهُمۡ أُحِيطَ بِهِمۡ دَعَوُاْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ لَئِنۡ أَنجَيۡتَنَا مِنۡ هَٰذِهِۦ لَنَكُونَنَّ مِنَ ٱلشَّٰكِرِينَ ﮊ (سورة يونس : 22)
{Và những làn sóng thần bao vây tứ phía chúng và chúng tưởng rằng chúng sắp bị nhận chìm trong đó. Thế là, họ đã cầu nguyện, khấn vái Allah một cách thành tâm, thưa rằng: “Nếu Ngài giải thoát chúng con khỏi đại nạn này thì chúng con sẽ là những người biết ơn Ngài} (Chương 10 – Yunus, câu 22).
Tuy nhiên, khi họ được an toàn và trở về với cuộc sống yên bình và phồn thịnh thì họ lại cầu nguyện, khấn vái những vị thánh bằng tượng. Do đó, Qur'an đã phủ nhận đức tin của họ và không thừa nhận họ.
Vậy sẽ như thế nào đối với một số người Muslim cầu nguyện, khấn vái các vị Thiên sứ cũng như những vị ngoan đạo cùng với Allah? Họ cầu xin các vị ấy ban phúc lành, khấn vái các vị ấy sự phù hộ và trợ giúp cho họ trong lúc nguy khốn cũng như trong lúc yên bình?!!
Chẳng lẽ họ đã không đọc được lời phán của Allah, Đấng Tối Cao?
ﮋوَمَنۡ أَضَلُّ مِمَّن يَدۡعُواْ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَن لَّا يَسۡتَجِيبُ لَهُۥٓ إِلَىٰ يَوۡمِ ٱلۡقِيَٰمَةِ وَهُمۡ عَن دُعَآئِهِمۡ غَٰفِلُونَ ٥ وَإِذَا حُشِرَ ٱلنَّاسُ كَانُواْ لَهُمۡ أَعۡدَآءٗ وَكَانُواْ بِعِبَادَتِهِمۡ كَٰفِرِينَ ٦ﮊ (سورة الأحقاف: 5، 6)
{Và còn ai lầm lạc hơn những người cầu nguyện, khấn vái ngoài Allah những kẻ (thần linh tưởng tượng) sẽ không thể đáp lại lời cầu nguyện của họ cho đến Ngày Phục sinh và ngay cả chúng (những thần linh mà họ tưởng tượng) cũng không hề biết gì đến việc người ta đang khấn vái, cầu nguyện chúng? Và khi nhân loại được tập trung lại (vào Ngày Phục sinh), chúng (những thần linh mà họ tưởng tượng) sẽ trở thành kẻ thù của họ và sẽ phủ nhận việc họ tôn thờ chúng} (Chương 46 – Al-Ahqaf, câu 5,6).
5- Có rất nhiều người thường nghĩ rằng những người thờ đa thần được nhắc đến trong Qur'an thường là những người chỉ thờ phượng những cái tượng bằng đá. Đây là quan niệm sai lầm, bởi vì những cái tượng mà họ thờ phượng được nói trong Qur'an thật ra là những người ngoan đạo. Theo sự ghi chép của Albukhari, ông Ibnu Abbas t nói về lời phán của Allah, Đấng Tối Cao trong chương Nuh:
ﮋوَقَالُواْ لَا تَذَرُنَّ ءَالِهَتَكُمۡ وَلَا تَذَرُنَّ وَدّٗا وَلَا سُوَاعٗا وَلَا يَغُوثَ وَيَعُوقَ وَنَسۡرٗا ﮊ (سورة نوح : 23)
{Và họ bảo: “Chớ từ bỏ các thần linh của các người và chớ bỏ các thần: Wadd, Suwa, Yaguth, Ya'uq và Nasr} (Chương 71 – Nuh, câu 23).
Đây là những tên gọi của những người ngoan đạo thuộc cộng đồng Nabi Nuh u. Khi những người ngoan đạo này chết đi, Shaytan đến thì thầm và xúi bẩy người dân của họ rằng hãy nên làm những tượng đài để tưởng nhớ những người ngoan đạo đó và hãy đề lên tên của họ. Thế là họ đã làm theo nhưng chưa có sự tôn thờ. Rồi sau đó, lớp người này chết đi, con cháu của họ sau này dần quên mất đường lối của ông cha nên dần dần tôn thờ các tượng một cách không kiến thức.
6- Allah, Đấng Tối Cao đã phán phủ nhận những ai cầu nguyện, khấn vái các vị Nabi và các vị ngoan đạo:
ﮋقُلِ ٱدۡعُواْ ٱلَّذِينَ زَعَمۡتُم مِّن دُونِهِۦ فَلَا يَمۡلِكُونَ كَشۡفَ ٱلضُّرِّ عَنكُمۡ وَلَا تَحۡوِيلًا ٥٦ أُوْلَٰٓئِكَ ٱلَّذِينَ يَدۡعُونَ يَبۡتَغُونَ إِلَىٰ رَبِّهِمُ ٱلۡوَسِيلَةَ أَيُّهُمۡ أَقۡرَبُ وَيَرۡجُونَ رَحۡمَتَهُۥ وَيَخَافُونَ عَذَابَهُۥٓۚ إِنَّ عَذَابَ رَبِّكَ كَانَ مَحۡذُورٗا ٥٧ ﮊ (سورة الإسراء : 56، 57)
{Hãy bảo họ (Muhammad): “Các người hãy cầu nguyện những người mà các người đã xác nhận chúng là thần linh của các người ngoài Ngài (Allah). Rồi các người sẽ thấy, chúng sẽ không có khả năng giải nạn cho các người và cũng không thể chuyển nạn kiếp cho người khác được". Những thần linh mà chúng cầu nguyện, khấn vái cũng sẽ tìm phương cách để đến gần Thượng Đế của họ, họ cũng thi đua nhau xem ai là người được gần Allah hơn, họ cũng hy vọng sự Thương xót của Ngài và sợ hãi sự trừng phạt của Ngài. Quả thật, sự trừng phạt của Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) là điều phải đáng sợ} (Chương 17 – Al-Isra', câu 56, 57).
Nhà Tafseer Ibnu Kathir nói trong bộ Tafseer (Giải thích Qur'an) của ông về hai câu kinh này với những nội dung tóm tắt như sau:
“Câu kinh này được mặc khải xuống cho một nhóm người, những người đã thờ phượng Jinn (Ma, quỷ), cầu nguyện, khấn vái chúng và quy phục chúng.
Có lời bảo rằng, câu kinh này được mặc khải xuống cho nhóm người đã tôn thờ Nabi Ysa u (Giê-su) và các Thiên thần.
Và câu kinh này đã phản bác và phủ nhận những ai cầu nguyện, khấn vái các vị Nabi hoặc các vị ngoan đạo."
7- Một số người cho rằng việc cầu xin phúc lành từ những ai khác ngoài Allah là được phép và họ bảo: Đấng ban phúc đích thực chỉ là Allah.
Việc cầu xin phúc lành từ Thiên sứ cũng như các vị ngoan đạo là hình thức được phép giống như chúng ta nói: Phương thuốc này hay vị thầy thuốc này làm cho khỏi bệnh. Điều này không thế chấp nhận, vì nó đi ngược lại với lời của Nabi Ibrahim u được Allah phán trong Qur'an:
ﮋٱلَّذِي خَلَقَنِي فَهُوَ يَهۡدِينِ ٧٨ وَٱلَّذِي هُوَ يُطۡعِمُنِي وَيَسۡقِينِ ٧٩ وَإِذَا مَرِضۡتُ فَهُوَ يَشۡفِينِ ٨٠ ﮊ (سورة الشعراء: 78-80)
{Ngài là Đấng đã tạo ra tôi và hướng dẫn tôi. Và là Đấng đã cho tôi ăn và cho tôi uống. Và khi tôi bệnh thì Ngài là Đấng chữa lành bệnh cho tôi} (Chương 26 – Ash-Shu'ara, câu 18-80).
Việc lập lại bởi đại từ Ngài trong mỗi câu kinh ám chỉ Đấng hướng dẫn, Đấng ban cấp nguồn sống và Đấng cho khỏi bệnh đều là Allah duy nhất, không ai khác ngoài Ngài, và phương thuốc và cách thức trị liệu chỉ là nguyên nhân chứ không phải là Đấng cho khỏi bệnh.
8- Đa số người không phân biệt được giữa sự cầu xin phúc lành từ người sống và người chết trong khi Allah, Đấng Tối Cao, đã phán rằng:
ﮋوَمَا يَسۡتَوِي ٱلۡأَحۡيَآءُ وَلَا ٱلۡأَمۡوَٰتُۚ ﮊ (سورة فاطر : 22)
{Người sống và người chết không giống nhau} (Chương 35 – Fatir, câu 22).
ﮋفَٱسۡتَغَٰثَهُ ٱلَّذِي مِن شِيعَتِهِۦ عَلَى ٱلَّذِي مِنۡ عَدُوِّهِۦ ﮊ (سورة القصص : 15)
{Thế là người thuộc phe của Y (Musa) gọi Y tiếp tay để đánh lại kẻ địch} (Chương 28 – AlQisas, câu 15).
Và đây là câu chuyện về một người đàn ông đã nhờ cậy Nabi Musa u bảo vệ cho y khỏi kẻ thù của y, và quả thật Nabi Musa đã ra tay trợ giúp như Allah đã nói tiếp theo:
ﮋفَوَكَزَهُۥ مُوسَىٰ فَقَضَىٰ عَلَيۡهِۖ ﮊ (سورة القصص : 15)
{Thế là, Musa cung tay tiếp đánh và kết liễu sinh mạng của hắn} (Chương 28 – AlQisas, câu 15).
Còn đối với người đã khuất thì không được phép cầu xin sự trợ giúp bởi vì người chết sẽ không nghe thấy lời cầu nguyện và khấn vái của chúng ta. Mà cho dù, người chết có nghe thấy đi chăng nữa thì họ cũng không thể đáp lại lời cầu khấn đó bởi vì họ không có khả năng đó. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋإِن تَدۡعُوهُمۡ لَا يَسۡمَعُواْ دُعَآءَكُمۡ وَلَوۡ سَمِعُواْ مَا ٱسۡتَجَابُواْ لَكُمۡۖ وَيَوۡمَ ٱلۡقِيَٰمَةِ يَكۡفُرُونَ بِشِرۡكِكُمۡۚ ﮊ (سورة فاطر : 14)
{Nếu các ngươi cầu nguyện, khấn vái chúng thì chúng sẽ không nghe được lời cầu khấn của các ngươi và nếu chúng có nghe thấy đi chăng nữa thì chúng vẫn không thể đáp lại lời cầu khấn của các ngươi; và vào Ngày Phục sinh, chúng sẽ phủ nhận việc các ngươi gán ghép chúng ngang bằng với Allah} (Chương 35 – Fatir, câu 14).
ﮋوَٱلَّذِينَ يَدۡعُونَ مِن دُونِ ٱللَّهِ لَا يَخۡلُقُونَ شَيۡٔٗا وَهُمۡ يُخۡلَقُونَ ٢٠ أَمۡوَٰتٌ غَيۡرُ أَحۡيَآءٖۖ وَمَا يَشۡعُرُونَ أَيَّانَ يُبۡعَثُونَ ٢١ ﮊ (سورة النحل: 20، 21)
{Và những kẻ (thần linh) mà họ cầu nguyện, khấn vái ngoài Allah đã không tạo hóa được bất kỳ thứ gì, ngược lại chúng chính là những tạo vật. Chúng thật ra chỉ là những vật chết không có sự sống và chúng cũng không biết bao giờ chúng sẽ được cho sống lại} (Chương 16 – An-Nahl, câu 20, 21).
9- Trong những Hadith xác thực có nói rằng, vào Ngày phục sinh, tất cả mọi người sẽ chạy đến các vị Nabi và nhờ họ cầu xin ân xá. Họ đã lần lượt chạy đến từng vị Nabi nhưng tất cả đều từ chối. Cuối cùng họ chạy đến Nabi Muhammad e và nhờ Người cầu xin ân xá. Người e bảo: Việc đó là của ta. Sau đó, Người cúi đầu quỳ lạy dưới Ngai vương của Allah và cầu xin Ngài làm dịu đi sự khắc nghiệt của Ngày hôm đó và xin Ngài mau chóng phán xét. Và đây là sự cầu xin ân xá mà Thiên sứ e được yêu cầu khi Người đang sống, có thể nói chuyện với mọi người và mọi người có thể nói chuyện với Người, Người đã cầu xin ân xá cho họ nơi Allah và Người cầu nguyện cho họ được dịu bớt đi sự khắc nghiệt.
10- Một sự khác biệt lớn giữa việc nhờ cậy người sống và việc nhờ cậy người chết là hành động của Umar bin Khattab t. Vào một mùa hạn hán khắc nghiệt, ông Umar đã nhờ cậy Abbas t, bác của Thiên sứ e cầu nguyện cho họ mà không nhờ đến Thiên sứ e vì Người đã không còn trên thế gian này nữa.
11- Một số học giả lại tưởng nhầm rằng việc Tawassul cũng giống như Istigha-thah trong khi hai hình thức này có sự khác biệt rất lớn. Tawassul là cầu nguyện và khấn vái Allah bởi một điều gì đó như chúng ta nói: (Lạy Thượng Đế, với sự yêu thương của Ngài và sự yêu thương của chúng con đến Thiên sứ của Ngài, xin Ngài hãy cứu rỗi chúng con!). Đây là hình thức được phép. Còn Istigha-thah là sự yêu cầu, nhờ cậy ai đó ngoài Allah như chúng ta nói: (Ôi Thiên sứ của Allah, xin Người hãy cứu rỗi chúng tôi!), và đây là hình thức không được phép, bởi Allah, Đấng Tối Cao có phán:
ﮋقُلۡ إِنِّي لَآ أَمۡلِكُ لَكُمۡ ضَرّٗا وَلَا رَشَدٗا ﮊ (سورة الجن : 21)
{Hãy bảo chúng (Muhammad): “Quả thật, ta không nắm bất kỳ một quyền lực nào để có thể hãm hại các người cũng như khiến các người theo Chân lý"} (Chương 72 – Al-Jinn, câu 21).
ﮋقُلۡ إِنَّمَآ أَدۡعُواْ رَبِّي وَلَآ أُشۡرِكُ بِهِۦٓ أَحَدٗا ﮊ (سورة الجن : 20)
{Hãy bảo chúng (Muhammad): “Quả thật, ta chỉ cầu nguyện, khấn vái Thượng Đế của ta và ta không bao giờ gán ghép với Ngài bất kỳ một ai (điều gì)"} (Chương 72 – Al-Jinn, câu 21).
Nabi Muhammad e di huấn:
« إِذَا سَأَلْتَ فَاسْأَلِ اللهَ وَإِذَا اسْتَعَنْتَ فَاسْتَعِنْ بِاللهِ » (حديث حسن صحيح رواه الترمذي)
“Khi nào ngươi muốn cầu xin hãy cầu xin Allah, và khi nào ngươi muốn cầu xin sự phù hộ và trợ giúp thì hãy cầu xin sự phù hộ và trợ giúp nơi Allah" (Hadith tốt và xác thực do Tirmizhi ghi lại).
Có một nhà thơ đã nói:
Tôi xin Allah tránh điều họa
Bởi không ai có quyền năng thế
Chỉ có Allah, duy nhất và duy nhất
Giúp tôi thoát nạn, mọi hiểm nghèo.
* * *
Allah là Đấng đã tạo hóa chúng ta, Ngài bắt chúng ta phải nhận biết rằng Ngài ngự ở đâu, để chúng ta hướng trái tim của chúng ta, lời cầu nguyện của chúng ta và lễ nguyện Salah của chúng ta đến Ngài. Còn ai không nhận biết được Thượng Đế của y ngự ở nơi nào thì y sẽ bị lầm lạc, không nhận thức được Đấng thờ phượng của y, và sẽ không thể thi hành việc thờ phượng đúng chân lý.
Quả thật, thuộc tính tối cao của Allah trên tất cả mọi tạo vật của Ngài, nó cũng giống như những thuộc tính khác của Ngài được đề cập trong Qur'an và trong các Hadith xác thực, như sự nghe, thấy, nói, đi xuống và những thuộc tính khác của Allah. Do đó, quan niệm và đức tin của những tiền bối ngoan đạo, những người thuộc phái Sunnah và Jama-ah (phái chính thống theo đúng đường lối của Nabi Muhammad e) tin tưởng theo đúng những gì được Allah mách bảo trong Kinh sách của Ngài, không có sự suy diễn, bóp méo, so sánh, hay chỉnh sửa. Bởi lẽ, Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋلَيۡسَ كَمِثۡلِهِۦ شَيۡءٞۖ وَهُوَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡبَصِيرُ ﮊ (سورة الشورى : 11)
{Không có bất kỳ một thứ gì giống Ngài cả, và Ngài là Đấng hằng nghe và hằng thấy} (Chương 42 – Ash-Shura, câu 11).
Và khi tất cả các thuộc tính của Ngài đều như vậy (tức như Ngài đã phán bảo trong câu kinh trên), thì các tạo vật của Ngài cũng như vậy. Bởi thế, đức tin vào nó là điều bắt buộc. Bởi những lẽ này, khi Imam Malik được hỏi về ý nghĩa lời phán của Allah trong câu kinh ﮋ ٱلرَّحۡمَٰنُ عَلَى ٱلۡعَرۡشِ ٱسۡتَوَىٰ ﮊ {Đấng Độ Lượng ngự trên chiếc Ngai vương} (Chương 20 – Ta-ha, câu 5) thì ông nói: Việc ở bên trên là điều rất rõ, còn như thế nào thì không được biết, đức tin vào nó là điều bắt buộc.
Do đó, này hỡi những anh em đồng đạo Muslim, các đồng đạo hãy nhìn vào lời nói của Imam Malik ﷺ, ông đã khẳng định rằng việc có đức tin vào việc ở bên trên của Allah là điều bắt buộc mà mỗi người Muslim cần phải biết rõ điều đó, tuy nhiên, ở bên trên như thế nào, ra làm sao thì không một ai biết được ngoại trừ Allah duy nhất.
Việc phủ nhận một thuộc tính nào đó từ những thuộc tính của Allah được khẳng định trong Qur'an và Hadith, trong đó, có thuộc tính ở trên cao của Ngài tức Ngài ở cao trên trời, là coi như đã phủ nhận tất cả những lời phán của Allah cũng như các Hadith đã khẳng định về những thuộc tính đó. Chúng ta không được phép phủ nhận bất kỳ một thuộc tính nào của Ngài đã được Ngài mách bảo cũng như được các Hadith khẳng đinh. Một số học giả sau này đã suy diễn các lời kinh và những thuộc tính của Allah bởi học thuyết triết lý đã làm hủy hoại đức tin Iman của nhiều người Muslim, khiến họ suy luận, so sánh và bóp méo các thuộc tính hoàn hảo và tuyệt đối của Allah, đi ngược lại quan niệm và đường lối của các bậc tiền bối ngoan đạo, đường lối an toàn, thống thái và chuẩn mực.
Và thật là lời hay ý đẹp làm sao cho những ai nói hai câu thơ: (Dịch nghĩa)
Noi theo tiền bối ngoan đạo luôn là điều tốt
Cải biên theo những hậu bối luôn là điều xấu.
Đức tin vào tất cả những thuộc tính của Allah được nói trong Qur'an và các Hadith xác thực là điều bắt buộc. Chúng ta không được phép phân biệt giữa các thuộc tính đó bằng cách tin vào một số và phủ nhận một số khác. Do đó, người nào tin rằng Allah là Đấng nghe và thấy thì không được so sánh sự nghe và thấy của Ngài như thế nào. Y có bổn phận phải tin Allah ngự ở trên trời (tức Ngài ở cao trên trời nhưng hình thức cao và bên trên như thế nào thì không được suy diễn và so sánh), bởi vì các thuộc tính của Allah, tất cả đều là hoàn hảo và tuyệt đối, Ngài đã tự khẳng định bản thân Ngài với các thuộc tính đó trong Kinh sách của Ngài, và lời nói của vị Thiên sứ của Ngài đã xác nhận chúng theo lẽ tự nhiên và Người đã tin chúng với sự nhận thức đúng mực và lành mạnh.
Kinh Qur'an thiêng liêng, các Hadith xác thực, trí óc lành mạnh và sự hợp lẽ của tự nhiên đã ủng hộ cho điều đó.
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋ ٱلرَّحۡمَٰنُ عَلَى ٱلۡعَرۡشِ ٱسۡتَوَىٰ ﮊ (سورة طه : 5)
{Đấng Độ Lượng ngự trên chiếc Ngai vương} (Chương 20 – Ta-ha, câu 5). Ngự trên tức là ở cao bên trên giống như lời Ta-bi-'in đã giải thích được ghi chép trong bộ Albukhari.
2- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋءَأَمِنتُم مَّن فِي ٱلسَّمَآءِ أَن يَخۡسِفَ بِكُمُ ٱلۡأَرۡضَ ﮊ (سورة الملك : 16)
{Phải chăng các ngươi cảm thấy an toàn thoát khỏi Đấng ở trên trời vì nghĩ rằng Ngài sẽ không làm cho đất sụp xuống nuốt mất các ngươi hay sao?}, Ibn Abbas nói: Đấng ở trên trời chính là Allah giống như lời Tafseer của Ibnu Al-Jawzi. (Chương 67 – Al-Mulk, câu 16).
3- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَخَافُونَ رَبَّهُم مِّن فَوۡقِهِمۡ ﮊ (سورة النحل : 50)
{Họ sợ Thượng Đế của họ, Đấng ở bên trên họ} (Chương 16 – An-Nahl, câu 50).
4- Allah phán về Nabi Ysa u:
ﮋبَل رَّفَعَهُ ٱللَّهُ إِلَيۡهِۚ ﮊ (سورة النساء : 158)
{Không, Allah đã đưa y (Nabi Ysa) lên cùng với Ngài}, tức Allah đã đưa Nabi Ysa lên trời. (Chương 4 – Annisa', câu 158).
5- Allah, Đấng Tôi Cao phán:
ﮋوَهُوَ ٱللَّهُ فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ ... ﮊ (سورة الأنعام : 3)
{Và Ngài chính là Allah, Đấng ở trên trời...} (Chương 6 – Al-An'am, câu 3).
Ibnu Kathir nói trong bộ Tafseer của ông về câu kinh này: Tất cả các nhà học giả Tafseer đều đồng thuận với nhau rằng, chúng ta không nói giống những gì mà nhóm người Al-Jahmiyah (nhóm người theo hệ phái lệch lạc) đã nói: Allah ngự khắp mọi nơi. Quả thật, Allah là Đấng Tối Cao, Ngài cao và vĩ đại hơn những gì họ nói và suy luận! Còn về lời phán của Ngài khi Ngài nói: ﮋوَهُوَ مَعَكُمۡ أَيۡنَ مَا كُنتُمۡۚ ﮊ {Và Ngài ở cùng với các ngươi bất cư nơi nào các ngươi có mặt} (Chương 57 – Al-Hadid, câu 4), có nghĩa là: Allah luôn ở bên chúng ta bằng sự quan sát và theo dõi của Ngài giống như những gì được giải thích trong bộ Tafseer của Ibu Kathir và Al-Jala-lain.
6- Nabi Muhammad e được đưa thăng lên trời đến tầng thứ bảy để được Allah phán truyền và sắc lệnh cho Người và cộng đồng của Người năm cuộc dâng lễ nguyện Salah mỗi ngày. (Như những gì được nói trong bộ Albukhari và Muslim).
7- Nabi Muhammad e nói:
«أَلاَ تَأْمَنُونِى وَأَنَا أَمِينُ مَنْ فِى السَّمَاءِ» (رواه البخاري ومسلم)
“Chẳng lẽ các người không cảm thấy an toàn từ ta trong khi ta cảm thấy an toàn từ Đấng ở trên trời" tức Allah. (Albukhari, Muslim).
8- Nabi Muhammad e nói:
«ارْحَمُوا مَنْ فِى الأَرْضِ يَرْحَمْكُمْ مَنْ فِى السَّمَاءِ» (حديث حسن صحيح رواه الترمذي)
“Các người hãy yêu thương những ai trên trái đất rồi các người sẽ được Đấng ở trên trời yêu thương" Đấng ở trên trời, ý nói Allah. (Hadith tốt và xác thực do Tirmizhi ghi lại).
9- Nabi Muhammad e hỏi một thiếu nữ nô lệ: “Allah ngự ở đâu?". Nữ nô lệ trả lời: Ngài ngự ở trên trời. Người hỏi tiếp: “Và Ta là ai?". Nữ nô lệ trả lời: Người là Thiên sứ của Allah. Người bảo: “Hãy trả tự do cho cô ta bởi quả thật cô ta là một người có đức tin". (Muslim).
10- Nabi Muhammad e nói:
«وَالعَرْشُ فَوْقَ المَاءِ واللهُ فَوْقَ عَرْشِهِ وَهُوَ يَعْلَمُ مَا أَنْتُمْ عَلَيْهِ» (حديث حسن رواه أبو داود)
“Và chiếc Ngai vương thì ở trên nước, và Allah thì ở trên chiếc Ngai vương của Ngài, và Ngài biết rõ tất cả mọi sự việc của các người" (Hadith tốt do Abu Dawood ghi lại).
11- Abu Bakr t nói: (Và ai thờ phượng Allah, quả thật, Allah là Đấng hằng sống ở trên trời không bao giờ chết). (Albukhari)
12- Khi Abdullah bin Muba-rak t được hỏi: Chúng ta nhận biết Thượng Đế của chúng ta như thế nào? Ông nói: Quả thật, Ngài ngự trên chiếc Ngai vương của Ngài ở bên trên các tầng trời. Ngài khác biệt với tạo vật của Ngài. Có nghĩa là: Allah ngự bên trên chiếc Ngai vương bằng bản chất thực sự của Ngài, Ngài độc lập với tạo vật của Ngài, và không có bất kỳ một sự vật nào trong tạo vật của Ngài có thể so sánh được với Ngài.
13- Học giả Abu Hani-fah đã viết một bức thông điệp có nhan đề: (Quả thật Allah ở trên trời), như thể là ông viết một bộ sách nghiên cứu và tìm hiểu về kiến thức tôn giáo.
14- Người dâng lễ nguyện Salah đọc câu tụng niệm trong lúc cúi đầu quỳ lạy (سُبْحَانَ رَبِّيَ الْأَعْلَى) (Subha-na rabbiyal 'ala) có nghĩa là: Vinh quang thay Thượng Đế của bề tôi, Đấng Tối Cao; và khi y du-a thì y giơ hai bàn tay ngửa lên trời.
15- Trẻ con khi ta hỏi chúng: Allah ở đâu? Chúng sẽ trả lời theo ý thức bẩm sinh lành mạnh của chúng: Ngài ở trên trời.
16- Trí óc lành mạnh và sự nhận thức đúng mực sẽ ủng hộ cho cái lý rằng Allah ở trên trời. Và cho dù Ngài có mặt ở khắp mọi nơi như những người lệch lạc Al-Jamiyah quan niệm đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải biết rằng có những nơi dơ bẩn và ô uế trong khi Ngài là Đấng Tối Cao và Vĩ đại hơn những gì họ nói và tưởng tượng.
* * *
Quả thật trong tôn giáo Islam, có những điều mà người Muslim chỉ cần phạm một trong số chúng thì Islam của y sẽ bị hủy hoại. Y sẽ bị mang tội Shirk (gán ghép với Allah một đối tác ngang hàng) khiến mọi việc hành đạo và những việc làm tốt thiện của y trở nên vô giá trị, y sẽ vĩnh viễn ở trong Hỏa ngục. Allah sẽ không tha thứ cho y ngoại trừ y quay về sám hối cùng Ngài và từ bỏ việc làm hư hại đó.
1- Điều hủy hoại Islam nặng nhất là đại Shirk: Đó là việc người Muslim hướng một hình thức trong các hình thức thờ phượng đến một ai (vật) khác ngoài Allah, như cầu nguyện, khấn vái và nhờ vả các vị Nabi cũng như những người ngoan đạo đã chết, hay những người còn sống khuất mặt. Y cầu khấn họ phù hộ và trợ giúp trong khi Nabi Muhammad e đã di huấn rằng:
« الدُّعَاءُ هُوَ الْعِبَادَةُ » (حديث حسن صحيح رواه الترمذي)
“Du-a (Cầu nguyện, Khấn vái) là thờ phượng" (Hadith tốt và xác thực do Tirmizhi ghi lại).
Do đó, thờ phượng ai (vật) khác ngoài Allah là việc làm Shirk. Tương tự, việc giết tế súc vật mà nhân danh của Nabi, của một vị ngoan đạo, hay bất kỳ một vị thánh nào, hoặc thề nguyền với người chết hay người sống cũng là việc làm Shirk bởi vì giết tế súc vật và thề nguyền là những hình thức thờ phượng cho nên không được hướng đến một ai (vật) khác ngoài Allah. Và một việc làm Shirk khác nữa đó là đi Tawaf (vòng quanh) mồ mả với tâm niệm để được gần Allah, vì việc Tawaf này là việc làm chỉ dành riêng cho ngôi đền thiêng liêng Ka'bah chiếu theo lời phán của Allah, Đấng Tối Cao:
ﮋوَلۡيَطَّوَّفُواْ بِٱلۡبَيۡتِ ٱلۡعَتِيقِ ﮊ (سورة الحج : 29)
{Và để họ đi Tawaf quanh ngôi đền thiên cổ} (Chương 22 – Al-Hajj, câu 29).
2- Việc đặc niềm tin và phó thác cho ai (vật) khác ngoài Allah, vì Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋفَعَلَيۡهِ تَوَكَّلُوٓاْ إِن كُنتُم مُّسۡلِمِينَ ﮊ (سورة يونس : 84)
{Các người hãy phó thác cho Allah nếu các người là những người Muslim} (Chương 10 – Ynus, câu 84).
3- Cúi gập người hoặc quỳ lạy với tâm niệm tôn kính những vị vua hay những vị quan chức cấp cao đang sống hoặc đã chết.
4- Không thừa nhận trụ cột nào đó trong các trụ cột của Islam như lễ nguyện Salah, đóng Zakah, nhịn chay Ramadan và đi hành hương Hajj; hoặc phủ nhận trụ cột nào đó trong các trụ cột của đức tin Iman: tin nơi Allah, các Thiên thần của Ngài, các kinh sách của Ngài, các vị Thiên sứ của Ngài, cuộc sống đời sau và định mệnh tốt xấu.
5- Có thái độ chán ghét Islam, hoặc chán ghét một điều gì đó từ mệnh lệnh của Thượng Đế trong việc hành đạo thờ phượng, trong sinh hoạt đời sống (xã hội, văn hóa, kinh tế,...) cũng như trong chuẩn mực đạo đức. Bởi Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋذَٰلِكَ بِأَنَّهُمۡ كَرِهُواْ مَآ أَنزَلَ ٱللَّهُ فَأَحۡبَطَ أَعۡمَٰلَهُمۡﮊ (سورة محمد: 9)
{Đó là vì chúng ghét những điều mà Allah đã ban xuống. Cho nên Ngài đã biến tất cả những việc làm của chúng thành vô nghĩa (tức không có giá trị nơi Ngài)} (Chương 47 – Muhammad, câu 9).
6- Có thái độ giễu cợt và nhạo báng một điều gì đó từ Qur'an, hoặc từ các Hadith (lời di huấn của Nabi Muhammad e) xác thực, hoặc từ những giáo luật của Islam. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋقُلۡ أَبِٱللَّهِ وَءَايَٰتِهِۦ وَرَسُولِهِۦ كُنتُمۡ تَسۡتَهۡزِءُونَ ٦٥ لَا تَعۡتَذِرُواْ قَدۡ كَفَرۡتُم بَعۡدَ إِيمَٰنِكُمۡۚ ﮊ (سورة التوبة : 65، 66)
{Hãy bảo chúng (Muhammad!): “Có phải các người đang chế giễu Allah, các lời phán của Ngài và Sứ giả của Ngài chăng? Chớ tìm cách biện bạch. Quả thật, các người chối bỏ đức tin sau khi các người đã tuyên bố tin tưởng.} (Chương 9 – Attawbah, câu 65, 66).
7- Phủ nhận một điều gì đó từ Kinh Qur'an thiêng liêng, hoặc từ các Hadith xác thực thuộc những gì khiến một tín đồ ra khỏi tôn giáo, một cách có ý thức.
8- Có thái độ khiếm nhã và bất kính với Thiên sứ Muhammad e, cũng như các hành vi giễu cợt với Người.
9- Phủ nhận sự hiện hữu của Allah, hoặc phủ nhận một điều gì đó từ các đại danh, các thuộc tính cũng như các hành vi của Ngài, được khẳng định từ Qur'an, và Sunnah (đường lối) xác thực của Thiên sứ Muhammad e.
10- Không có đức tin nơi tất cả các vị Thiên sứ được Allah cử phái đến để hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, hoặc chỉ tin một số và chối bỏ một số khác.
11- Áp dụng các điều luật không phải là các điều luật từ Allah ban xuống vì cho rằng giáo luật của Islam không tốt đẹp, không có giá trị cải thiện, hoặc cho rằng được phép dùng những điều luật khác song hành với các giáo luật Islam.
12- Nhờ đến các điều luật khác ngoài giáo luật Islam can thiệp, hoặc không hài lòng với những điều luật xử lý của Islam, hoặc thấy rằng bản thân bị thiệt thoài và eo hẹp khi chiếu theo giáo luật của Allah. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋفَلَا وَرَبِّكَ لَا يُؤۡمِنُونَ حَتَّىٰ يُحَكِّمُوكَ فِيمَا شَجَرَ بَيۡنَهُمۡ ثُمَّ لَا يَجِدُواْ فِيٓ أَنفُسِهِمۡ حَرَجٗا مِّمَّا قَضَيۡتَ وَيُسَلِّمُواْ تَسۡلِيمٗا ٦٥ﮊ (سورة النساء : 65)
{Nhưng không, nhân danh Thượng Đế của Ngươi (Muhammad), chúng sẽ không thật lòng tin tưởng cho đến khi nào chúng đến yêu cầu Ngươi đứng ra phân xử về điều chúng đang tranh chấp rồi chúng cảm thấy không uất ức trong lòng về quyết định mà Ngươi đã đưa ra và chúng hoàn toàn qui phục.} (Chương 4 – Annisa', câu 65).
13- Thực hiện bổn phận và nghĩa vụ cho những nền chủ nghĩa khác con đường của Allah như chủ nghĩa độc tài, hay chủ nghĩa dân chủ hoặc những nền chủ nghĩa khác thuộc những con đường nghịch lại với con đường của Allah. Bởi Ngài phán:
ﮋأَمۡ لَهُمۡ شُرَكَٰٓؤُاْ شَرَعُواْ لَهُم مِّنَ ٱلدِّينِ مَا لَمۡ يَأۡذَنۢ بِهِ ٱللَّهُۚﮊ (سورة الشورى: 21)
{Hoặc phải chăng họ có những đôi tác (thần linh mà chúng gán ghép ngang hàng với Allah) đã thiết lập cho họ một tôn giáo mà Allah không chấp thuận?} (Chương 42 – Al-Shura, câu 21).
14- Cấm đoán những gì Allah cho phép, hoặc cho phép những gì Allah cấm đoán, như một số học giả cố tình cho phép Riba' (cho vay lấy lãi). Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلَا تَقُولُواْ لِمَا تَصِفُ أَلۡسِنَتُكُمُ ٱلۡكَذِبَ هَٰذَا حَلَٰلٞ وَهَٰذَا حَرَامٞ لِّتَفۡتَرُواْ عَلَى ٱللَّهِ ٱلۡكَذِبَۚ إِنَّ ٱلَّذِينَ يَفۡتَرُونَ عَلَى ٱللَّهِ ٱلۡكَذِبَ لَا يُفۡلِحُونَ ١١٦ ﮊ (سورة النحل: 116)
{Và chớ nói về những gì mà lưỡi của các ngươi có thể nói dối rằng món này Halal (được phép) và món này thì Haram (không được phép), nhằm bịa đặt để nói dối Allah. Quả thật, những ai bịa đặt điều nói dối rồi đổ thừa cho Allah thì họ sẽ không bao giờ thành đạt.} (Chương 16 – Al-Nahl, câu 116).
15- Có đức tin vào các phép tắc phá hại như chủ nghĩa vô thần, Hội tam điểm Do thái, Chủ nghĩa Mác, Chủ nghĩa thế tục (Chủ nghĩa phi tôn giáo), hoặc những nhóm người đã yêu thích những người Ả rập không phải Muslim hơn những người Muslim không phải Ả rập. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَمَن يَبۡتَغِ غَيۡرَ ٱلۡإِسۡلَٰمِ دِينٗا فَلَن يُقۡبَلَ مِنۡهُ وَهُوَ فِي ٱلۡأٓخِرَةِ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٨٥ ﮊ (سورة آل عمران: 85)
{Và ai tìm lấy một thứ gì khác ngoài Islam làm tôn giáo thì điều đó của y sẽ không được chấp nhận, và vào Ngày sau y sẽ là một trong những kẻ bị thua thiệt} (Chương 3 – Ali I'mran, câu 85).
16- Chửi rủa Thượng Đế, hoặc chửi rủaThiên sứ của Ngài, hoặc nguyền rủa tôn giáo, hoặc những hành vi và thái độ nào đó khiến phải trở thành kẻ ngoại đạo.
17- Có sự chán ghét trong lòng về giáo lý Tawhid của Allah, trốn tránh việc Du-a đến Ngài và cầu xin sự phù hộ phúc lành nơi riêng Ngài, luôn đấu tranh chống lại những ai cầu xin sự trợ giúp nơi Allah. Bởi Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَإِذَا ذُكِرَ ٱللَّهُ وَحۡدَهُ ٱشۡمَأَزَّتۡ قُلُوبُ ٱلَّذِينَ لَا يُؤۡمِنُونَ بِٱلۡأٓخِرَةِۖ وَإِذَا ذُكِرَ ٱلَّذِينَ مِن دُونِهِۦٓ إِذَا هُمۡ يَسۡتَبۡشِرُونَ ٤٥ ﮊ (سورة الزمر: 45)
{Và khi nghe nhắc đến Allah, Đấng duy nhất thì tấm lòng của những ai không tin tưởng nơi Đời sau tràn đầy oán ghét; và khi nghe nhắc đến những ai khác ngoài Ngài thì chúng vui thích ra mặt.} (Chương 39 – Az-Zumar, câu 45).
Và cảm thấy thanh thản trong lòng mỗi khi cầu nguyện đến các vị Thiên sứ, hoặc các vị ngoan đạo đã chết, hoặc những người còn sống nhưng khuất mặt để mong sự phù hộ từ họ.
18- Cải biên, thay đổi tôn giáo và chuyển tiếp từ Islam sang những gì khác. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَمَن يَرۡتَدِدۡ مِنكُمۡ عَن دِينِهِۦ فَيَمُتۡ وَهُوَ كَافِرٞ فَأُوْلَٰٓئِكَ حَبِطَتۡ أَعۡمَٰلُهُمۡ فِي ٱلدُّنۡيَا وَٱلۡأٓخِرَةِۖ ﮊ (سورة البقرة: 217)
{Và ai trong các ngươi bỏ đạo của y và chết trong tình trạng không có đức tin thì họ là những người sẽ bị mất hết những việc làm tốt thiện ở đời này lẫn Đời sau.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 217).
Và Nabi Muhammad e cũng có nói:
« مَنْ بَدَّلَ دِينَهُ فَاقْتُلُوهُ » (رواه البخاري)
“Người nào thay đổi tôn giáo của y thì các ngươi hãy giết y" (Albukhari)
19- Ủng hộ và tiếp tay cho những người Do thái, những người Thiên chúa, những người vô thần chống cự hay gây hại cho người Muslim. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ لَا تَتَّخِذُواْ ٱلۡيَهُودَ وَٱلنَّصَٰرَىٰٓ أَوۡلِيَآءَۘ بَعۡضُهُمۡ أَوۡلِيَآءُ بَعۡضٖۚ وَمَن يَتَوَلَّهُم مِّنكُمۡ فَإِنَّهُۥ مِنۡهُمۡۗ ﮊ (سورة المائدة: 51)
{Hỡi những ai có đức tin! Chớ kết thân với người Do thái và tín đồ Thiên chúa giáo. Họ là đồng minh bảo vệ lẫn nhau. Và ai trong các ngươi (Muslim) quay về kết thân với họ thì là người của họ.} (Chương 5 – Al-Ma-idah, câu 51).
20- Không phủ nhận chủ nghĩa vô thân đã phủ nhận sự tồn tại của Allah, hoặc không phủ nhận Do thái giáo và Thiên chúa giáo, những người đã không có đức tin nơi Nabi Muhammad e. Bởi vì Allah, Đấng Tối Cao đã phủ nhận tất cả bọn họ, Ngài phán:
ﮋإِنَّ ٱلَّذِينَ كَفَرُواْ مِنۡ أَهۡلِ ٱلۡكِتَٰبِ وَٱلۡمُشۡرِكِينَ فِي نَارِ جَهَنَّمَ خَٰلِدِينَ فِيهَآۚ ﮊ (سورة البينة: 6)
{Quả thật, những người không có đức tin trong số người dân kinh sách (Do thái) và những người thờ đa thần sẽ vào ở trong Hỏa ngục đời đời.} (Chương 98 – Al-Bayyinah, câu 6).
21- Quan niệm của người theo hệ phái Sufi về sự tồn tại hợp nhất của Allah: Đó là tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ càn khôn đều là Allah, ... thậm chí vị giáo chủ của họ còn khẳng định:
Ngay cả con chó, con heo cũng là Thượng Đế.
Ngay cả tu sĩ trong nhà thờ cúng là Thượng Đế.
Và vị giáo chủ của họ Al-Hilaaj nói: Những gì trong chiếc áo choàng cũng là Thượng Đế.
Do đó, các học giả đã phán xét xử tử ông ta.
22- Câu nói rằng tôn giáo phải tách rời hệ thống tổ chức và phép tắc của quốc gia, bởi vì trong Islam không có chính trị. Quả thật, điều này đã phủ nhận Qur'an và các lời di huấn của Thiên Sứ.
23- Câu nói của một số người Sufi rằng Allah đã giao tất cả các chìa khóa của mọi sự việc và mệnh lệnh cho một số vị giáo chủ từ các cực của trái đất. Điều này đã đi ngược lại với lời phán của Allah, Đấng Tối Cao:
ﮋلَّهُۥ مَقَالِيدُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِۗ ﮊ (سورة الزمر: 63)
{Ngài nắm tất cả các chìa khóa của các tầng trời và trái đất} (Chương 39 – Az-Zumar, câu 63).
* * *
Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ حَلَفَ بِغَيْرِ اللهِ فَقَدْ أَشْرَكَ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Ai thề thốt bởi một người nào đó hoặc vật gì khác ngoài Allah thì y đã làm điều Shirk" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
« مَنْ كَانَ حَالِفًا فَلْيَحْلِفْ بِاللهِ أَوْ لِيَصْمُتْ » (متفق عليه)
“Người nào muốn thề thì hãy thề bởi Allah còn không thì im lặng" (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).
Nếu chúng ta muốn thề thì chúng ta hãy thề bởi Allah, hoặc bởi một đại danh hay một thuộc tính nào đó của Ngài, bởi vì trong sự thề thốt là biểu hiện sự tôn kính, và sự tôn kính sẽ không được biểu hiện đến ai (vật) khác ngoài Allah. Do đó, chúng ta không được phép thề bởi Nabi hay thề bởi ngôi đền Ka'bah, hoặc thề bởi những điều được ủy thác từ Allah như nhịn chay Ramadan, lễ nguyện Salah, việc bố thí Zakah và hành hương Hajj; chúng ta cũng không được phép thề thốt bởi danh dự, cha, mẹ, hoặc bất cứ ai (vật gì) thuộc tạo vật của Allah. Chúng ta hãy coi chừng việc thề thốt trên những điều giả dối và cũng đừng nên thề thốt quá nhiều, nếu chúng ta là người chân thật thì chỉ cần nói, thí dụ, “Thiệt tình tôi bán nó như thế này".
Và ai thề thốt trên những điều trái đạo và tội lỗi thì hãy từ bỏ việc làm đó và hãy chịu hình phạt Kaffa-rah dành cho nó.
* * *
Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ أَتَى كَاهِناً أَوْ عَرَّافاً فَصَدَّقَهُ بِمَا يَقُولُ فَقَدْ كَفَرَ بِمَا أُنْزِلَ عَلَى مُحَمَّدٍ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Ai tìm đến thầy bói hoặc những nhà tiên đoán rồi tin theo những gì họ nói thì quả thật y đã không có đức tin vào những gì đã đươc mặc khải xuống cho Muhammad" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
Chúng ta không được phép tin theo những nhà chiêm tinh, thầy bói, thầy bùa, thầy bói đất, thầy gọi hồn và những ai tự cho rằng họ biết về linh hồn, hoặc biết những gì xảy ra ở quá khứ cũng như những gì sắp xảy ra ở tương lai. Bởi những điều đó chỉ thuộc riêng phạm vi của Allah, chỉ Ngài duy nhất mới có quyền năng và sự hiểu biết về những thứ đó. Ngài phán:
ﮋوَهُوَ عَلِيمٌ بِذَاتِ الصُّدُورِ ﮊ (سورة الحديد: 6)
{Ngài là Đấng am tương mọi điều thầm kín trong lòng của mọi người} (Chương 57 – Al-Hadid, câu 6).
ﮋقُل لَّا يَعۡلَمُ مَن فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ ٱلۡغَيۡبَ إِلَّا ٱللَّهُۚ ﮊ (سورة النمل: 65)
{Hãy nói rằng không một ai trong các tầng trời và trái đất biết được điều vô hình ngoại trừ Allah duy nhất} (Chương 27 – An-Naml, câu 65).
Những gì theo lời của những kẻ dóc láo và lừa đảo được nói trên thật ra chỉ là một sự trùng hợp, sự phán đoán không chắc chắn, đa phần là điều dối gạt từ Shaytan không nên tin trừ những ai trí tuệ kém mới không nhận ra điều đó. Nếu những kẻ tự cho mình biết điều vô hình kia thực sự biết điều vô hình là chắc chắn họ sẽ có thể tìm ra những kho tàng châu báu để làm giàu cho bản thân họ, nhưng ngược lại, họ chỉ biết ăn tiền của thiên hạ một cách lừa đảo trắng trợn. Và nếu họ thực sự là những người biết điều vô hình thì hãy bảo họ cho biết về các bí mất của những người Do thái để tiêu diệt chúng.
* * *
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَٱلَّذِينَ هُمۡ عَلَىٰ صَلَوَٰتِهِمۡ يُحَافِظُونَ ٩ أُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلۡوَٰرِثُونَ ١٠ ٱلَّذِينَ يَرِثُونَ ٱلۡفِرۡدَوۡسَ هُمۡ فِيهَا خَٰلِدُونَ ١١ ﮊ (سورة المؤمنون: 9 -11)
{Và những ai cẩn thận gìn giữ việc dâng lễ nguyện Salah của họ. Họ thật sự là những người thừa kế; họ sẽ thừa hưởng Thiên Đàng hạnh phúc ở tầng cao nhất (Firdaus), họ sẽ sống trong đó mãi mãi} (Chương 23 – Al-Mu'minun, câu 9 -11).
2- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَأَقِمِ ٱلصَّلَوٰةَۖ إِنَّ ٱلصَّلَوٰةَ تَنۡهَىٰ عَنِ ٱلۡفَحۡشَآءِ وَٱلۡمُنكَرِۗ ﮊ (سورة العنكبوت: 45)
{Và hãy dâng lễ nguyện Salah một cách chu đáo. Quả thật, lễ nguyện Salah ngăn cản một người tránh xa những điều ô uế và tội lỗi} (Chương 29 – Al-'Ankabut, câu 45).
3- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋفَوَيۡلٞ لِّلۡمُصَلِّينَ ٤ ٱلَّذِينَ هُمۡ عَن صَلَاتِهِمۡ سَاهُونَ ٥ ﮊ (سورة الماعون: 4،5)
{Thật thảm hại thay cho những người dâng lễ nguyện Salah một cách lơ là} (Chương 107 – Al-Ma-'un, câu 4,5).
4- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋقَدۡ أَفۡلَحَ ٱلۡمُؤۡمِنُونَ ١ ٱلَّذِينَ هُمۡ فِي صَلَاتِهِمۡ خَٰشِعُونَ ٢ ﮊ (سورة المؤمنون: 1،2)
{Quả thật, những người có đức tin chắc chắn sẽ thành đạt. Họ là những người đã hạ mình khiêm tốn trong việc dâng lễ nguyện Salah của họ} (Chương 23 – Al-Mu'minun, câu 1, 2).
5- Nabi Muhammad e nói:
« أَرَأَيْتُمْ لَوْ أَنَّ نَهْرًا بِبَابِ أَحَدِكُمْ يَغْتَسِلُ مِنْهُ كُلَّ يَوْمٍ خَمْسَ مَرَّاتٍ هَلْ يَبْقَى مِنْ دَرَنِهِ شَىْءٌ ». قَالُوا لاَ يَبْقَى مِنْ دَرَنِهِ شَىْءٌ.
قَالَ « فَذَلِكَ مَثَلُ الصَّلَوَاتِ الْخَمْسِ يَمْحُو اللهُ بِهِنَّ الْخَطَايَا » (متفق عليه)
“Các người có thấy rằng nếu như có một con sông ngay cửa nhà của các người để các người tấm rửa mỗi ngày năm lần, thử hỏi cơ thể các người có còn vết bẩn nào nữa chăng?" Các vị Sahabah đáp: Chắc chắn không còn vết bẩn nào cả. Người e nói: “Cũng giống như vậy, năm lần dâng lễ nguyện Salah sẽ được Allah dùng để bôi xóa mọi tội lỗi." (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).
6- Nabi Muhammad e nói:
« بَيْنَ الرَّجُلِ وَبَيْنَ الشِّرْكِ وَالْكُفْرِ تَرْكُ الصَّلاَةِ » (رواه مسلم)
“Sự khác biệt giữa một người với sự Shirk và vô đức tin là bỏ lễ nguyện Salah" (Muslim).
7- Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ تَوَضَّأَ فَأَحْسَنَ الْوُضُوءَ ثُمَّ صَلَّى رَكْعَتَيْنِ يُقْبِلُ عَلَيْهِمَا بِقَلْبِهِ وَوَجْهِهِ وَجَبَتْ لَهُ الْجَنَّةُ » (حديث صحيح رواه النسائي)
“Ai chu đáo lấy nước Wudu rồi dâng lễ nguyện Salah hai rak-at Sunnah bằng cả trái tim thì chắc chắn y sẽ được vào Thiên Đàng" (Hadith xác thực do Annasa-i ghi lại).
* * *
Wudu: Vén tay áo của bạn lên đến cùi chỏ, rồi nói: “Bissmillah" tức phiên âm của câu “بِسْمِ اللهِ" có nghĩa là “Nhân danh Allah", rồi thực hiện các bước sau:
1- Rửa hai bàn tay, súc miệng, súc mũi bằng nước (3 lần).
2- Rửa mặt, hai cánh tay từ đầu ngón tay đến cùi chỏ, rửa cánh tay phải trước rồi đến tay trái. (3 lần)
3- Dùng tay nhúng nước rồi lau lên toàn đầu và hai tai (một lần).
4- Rửa hai bàn chân từ đầu ngón chân đến mắt cá chân, chân phải trước chân trái sau. (3 lần).
Lễ nguyện Salah: “Lễ nguyện bắt buộc Al-Fajr hai rak-at" (Định tâm được thể hiện trong lòng).
1- Hướng mặt về Qiblah, giơ hay bàn tay lên đến tai (bàn tay mở, lòng bàn tay hướng Qiblah), đồng thời nói: “اللهُ أَكْبَرُ" “Ollo-hu-Akbar" có nghĩa là “Allah, Đấng vĩ đại nhất".
2- Đặt hai tay lên lòng ngực, tay phải bên trên tay trái, đọc:
سُبْحَانَكَ اللَّهُمَّ وَبِحَمْدِكَ تَبَارَكَ اسْمُكَ وَتَعَالَى جَدُّكَ وَلاَ إِلَهَ غَيْرُكَ
Subha-naka, Ollo-humma wa bihamdika taba-rakas muka wa ta'ala jadduka wala ilaha ghayruka.
(Vinh quang thay Ngài, ôi Allah, với sự tán dương và ca ngợi Ngài, với đại danh ân phúc của Ngài và với quyền lực tối cao của Ngài, quả thật không có Thượng Đế đích thực nào Ngoài Ngài cả).
Rak-at thứ nhất
Đọc:
ﭷ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ، ﭑ ﭒ ﭓ ﭔ
A'u-zhu billa-hi minash shayto-nir roji-m, bissmillah hirrohma niro-hi-m.
Cầu xin Allah che chở khỏi sự quấy nhiễu của Shaytan, nhân danh Allah, Đấng rất mực Độ lượng, Đấng rất mực Khoan dung.
ٱلۡحَمۡدُ لِلَّهِ رَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ٢ ٱلرَّحۡمَٰنِ ٱلرَّحِيمِ ٣ مَٰلِكِ يَوۡمِ ٱلدِّينِ ٤ إِيَّاكَ نَعۡبُدُ وَإِيَّاكَ نَسۡتَعِينُ ٥ اهۡدِنَا ٱلصِّرَٰطَ ٱلۡمُسۡتَقِيمَ ٦ صِرَٰطَ ٱلَّذِينَ أَنۡعَمۡتَ عَلَيۡهِمۡ غَيۡرِ ٱلۡمَغۡضُوبِ عَلَيۡهِمۡ وَلَا ٱلضَّآلِّينَ ٧
آمِيْنَ
Alhamdulilla hirabbil 'alami-n, Arrohma-niro-hi-m, ma-liki yawmid di-n. I-ya-ka na'budu wa i-ya-ka nasta'i-n. Ihdinas siro-tol mustaqi-m, siro-tol lazhi-na an'amta 'alayhim, ghayril maghdu-bi 'alayhim wa lodh dho-lli-n.
Ami-n
(Mọi lời ca ngợi và tan dương kính dâng lên Allah, Đấng Chủ Tể của toàn vũ trụ, Đấng rất mực Độ lượng, Đấng rất mực Khoan dung, vị vua của Ngày Phán xử. Chỉ với riêng Ngài chúng con xin thờ phượng và chỉ với riêng Ngài chúng con cầu xin sự trợ giúp. Xin Ngài hãy hướng dẫn chúng con đến với con đường ngay chính, con đường của những người mà Ngài đã ban ân phúc cho họ, không phải con đường của những người lầm lạc, hoặc của những kẻ bị Ngài giận dữ và phẫn nộ.
Xin Ngài chấp nhận lời nguyện cầu!
بِسم الله الرحمن الرحيم
قُلۡ هُوَ ٱللَّهُ أَحَدٌ ١ ٱللَّهُ ٱلصَّمَدُ ٢ لَمۡ يَلِدۡ وَلَمۡ يُولَدۡ ٣ وَلَمۡ يَكُن لَّهُۥ كُفُوًا أَحَدُۢ ٤
Hãy nói đi (Muhammad) rằng Ngài là Allah, Đấng Duy nhất. Allah là Đấng Tự hữu (không phụ thuộc vào bất cứ thứ gì mà mọi tạo vật phải phụ thuộc vào Ngài). Ngài không sinh ra ai cũng không do ai sinh ra. Và không có thứ gì có thể so sanh với Ngài.
1- Giơ tay lên đồng thời Takbir (nói Ollo-hu Akbar), ruku' (cúi gập người, hai tay chống lên đầu gối) và nói:
"سُبْحَانَ رَبِّيَ الأَعْلَى"
“Subhana Rabbiyal 'Azhi-m"
“Vinh quang thay Thượng Đế của bề tôi, Đấng Tối Cao".
2- Trở dậy đồng thời giơ hai tay lên, nói:
"سَمِعَ اللهُ لِمَنْ حَمِدَهُ ، رَبَّنَا وَلَكَ الحَمْدُ"
“Sami'ollo-hu liman hamidah, rabbana wa lakal hamdu".
“Allah đã nghe thấy những ai tán dương, ca ngợi Ngài. Lạy Thượng Đế của chúng con, mọi sự ca ngợi đều kính dâng Ngài."
3- Takbir và Sujud (cúi đầu quỳ lạy) sao cho hai bàn tay, mặt, mũi, các ngón chân tiếp đất hướng về Qiblah, đồng thời nói 3 lần: “سُبْحَانَ رَبِّيَ الأَعْلَى" “Subha-na rabbiyal a'la" “Vinh quan thay Thượng Đế của bề tôi, Đấng Tối Cao!".
4- Ngồi dậy từ Sujud, takbir, đặt hai bàn tay lên hai đùi và nói: “رَبِّ اغْفِرْ لِيْ" “Rabbigh-fir-li" “Lạy Thượng Đế của bề tôi, xin Ngài hãy thứ tội lỗi cho bề tôi!".
5- Cúi đầu mọp xuống Sujud lần hai, takbir, và nói 3 lần: “سُبْحَانَ رَبِّيَ الأَعْلَى" “Subha-na rabbiyal a'la" “Vinh quan thay Thượng Đế của bề tôi, Đấng Tối Cao!".
6- Takbir, dậy từ Sujud lần thứ hai và ngồi lại giây lát, cách ngồi là ngồi lên bàn chân trái, bàn chân phải dựng đứng. (Đây được gọi là ngồi nghỉ giây lát).
1- Đứng dậy để tiếp tục rak-at thứ hai, sau khi đọc “A'u-zhu ...", “Bissmillah ..." và bài Fatihah xong thì đọc thêm một bài kinh Qur'an ngắn khác.
2- Ruku', Sujud tương tự như đã làm ở rak-at thứ nhất. Sau đó, ngồi lại, nắm các ngón tay phải lại chừa ngón trỏ duỗi thẳng và cử động lên xuống, đồng thời đọc:
التَّحِيَّاتُ لِلهِ ، وَالصَّلَوَاتُ وَالطَّيِّبَاتُ ، السَّلاَمُ عَلَيْكَ أَيُّهَا النَّبِىُّ وَرَحْمَةُ اللهِ وَبَرَكَاتُهُ ، السَّلاَمُ عَلَيْنَا وَعَلَى عِبَادِ اللهِ الصَّالِحِين. أَشْهَدُ أَنْ لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ ، وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ.
اللَّهُمَّ صَلِّ عَلَى مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِ مُحَمَّدٍ ، كَمَا صَلَّيْتَ عَلَى آلِ إِبْرَاهِيمَ، وَبَارِكْ عَلَى مُحَمَّدٍ وَعَلَى آلِ مُحَمَّدٍ ، كَمَا بَارَكْتَ عَلَى آلِ إِبْرَاهِيمَ ، إِنَّكَ حَمِيدٌ مَجِيدٌ.
Attahi-ya-tu lillah, wassola-tu wattoyyiba-t, assala-mu 'alayka ayyuhan Nabi-yu wa rohmatullo-hi wa baroka-tuh, assala-mu 'alayna wa 'ala 'iba-dilla-his so-lihi-n. Ashhadu alla ila-ha illollo-h, wa ashhadu anna Muhammadan 'abduhu wa rosu-luh.
Ollo-humma solli 'ala Muhammad wa 'ala a-li Muhammad kama sollayta 'ala Ibro-him wa 'ala a-li Ibro-him, wa ba-rik 'ala Muhammad wa 'ala a-li Muhammad kama ba-rakta 'ala Ibro-him wa 'ala a-li Ibro-him, innaka hami-dum maji-d.
Mọi lời chào tôn kính, ân phúc và tốt lành kính dâng Allah, xin chào an lành đến vị Nabi và xin Allah yêu thương và ban phúc cho Người, cầu xin an lành cho tất cả chúng ta và cho những người hiền lương ngoan đạo, xin chứng nhận không có Đấng thờ phượng nào khác ngoài Allah và xin chứng nhận Mohammad là một bề tôi và là vị thiên sứ của Ngài.
Lạy Allah, xin Ngài hãy ban an lành cho Mohammad và các tín đồ của Người như Ngài đã ban an lành cho Nabi Ibrahim và các tín đồ của Người; Lạy Allah, xin Ngài hãy ban ân phúc cho Mohammad cùng các tín đồ của Người như Ngài đã ban ân phúc cho Nabi Ibrahim cùng với tín đồ của Người, quả thật, Ngài là Đấng đáng được ca ngợi và tôn kính.
3- Sau đó, đọc tiếp lời Du-a:
« اللَّهُمَّ إِنِّى أَعُوذُ بِكَ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ ، وَمِنْ عَذَابِ النَّارِ، وَمِنْ فِتْنَةِ الْمَحْيَا وَالْمَمَاتِ ، وَمِنْ فِتْنَةِ الْمَسِيحِ الدَّجَّالِ »
“Ollo-humma inni a'u-zhu bika min 'azha-bil qabri, wa min 'azha-bin na-ﷺ, wa min fitnatil mahya wal mama-t, wa min fitnatil masi-hid daja-l".
“Lạy Thượng Đế, quả thật bề tôi cầu xin Ngài cứu rỗi bề tôi thoát khỏi sự trừng phạt nơi cõi mộ, thoát khỏi sự trừng phạt nởi Hỏa ngục, thoát khỏi những thử thách của cõi sống và cõi chết và sự thử thách của Masi-h Daja-l".
4- Quay mặt sang phải và cho Salam, quay mặt sang trái và cho Salam. Câu Salam được nói là:
"السَّلاَمُ عَلَيْكُمْ وَرَحْمَةُ اللهِ وَبَرَكَاتُهُ"
“Assala-mu 'alaykum wa rohmatullo-hi wa baroka-tuh"
Bảng Số Lượng Rak-at Của Các Lễ Nguyện Salah | |||
Salah | Sunnah trước | Bắt buộc | Sunnah sau |
Al-Fajr | 2 | 2 | -- |
Al-Zhuhr | 4 | 4 | 2 |
Al-Asr | 4 | 4 | -- |
Al-Maghrib | 2 | 3 | 2 |
Al-'Isha | 2 | 4 | 2/3 witr |
Al-Jum'ah | 2 Rak-at chào Masjid | 2 | 4 |
* * *
1- Theo đường lối của Thiên sứ Muhammad e, người dâng lễ nguyện được khuyến khích dâng lễ sunnah trước và sau các lễ nguyện Salah bắt buộc.
2- Hãy dâng lễ một cách khoan thai, mắt luôn hướng về nơi cúi đầu Sujud, không liếc nhìn qua lại.
3- Hãy im lặng khi nghe tiếng đọc của Iman và hãy đọc khi nào Imam ngừng đọc.
4- Lễ nguyện Salah bắt buộc Jum'ah chỉ gồm hai Rak-at, và nó chỉ được thực hiện ở Masjid có đọc Khutbah (thuyến giảng Jum'ah).
5- Lễ nguyện Salah bắt buộc Al-Maghrib gồm ba Rak-at. Hãy dâng lễ hai Rak-at giống như hai Rak-at của lễ nguyện Salah bắt buộc Al-Fajr, và khi đã hoàn tất bài Tasha-hud (Attahi-ya-tu lillah, ...) thì không cho Salam mà hãy đứng dậy để tiếp tục Rak-at thứ ba, hai bàn tay giơ lên sao cho các đầu ngón tay ngang vai, chỉ đọc Fatihah không đọc thêm gì nữa, sau đó hãy hoàn tất phần còn lại giống như Rak-at cuối của Al-Fajr.
6- Lễ nguyện Salah bắt buộc Al-Zhuhr, Al-Asr và Al-'Isha gồm bốn Rak-at. Hãy thực hiện tương tự như lễ nguyện Salah Al-Maghrib, sau đó, đứng dậy để tiếp tục Rak-at thứ tư, chỉ đọc Fatihah không đọc gì thêm nữa, rồi hoàn tất lễ nguyện Salah giống như đã thực hiện.
7- Lễ nguyện Sunnah Witr gồm ba Rak-at: hoàn tất hai Rak-at thì cho Salam; tiếp tục dâng lễ một Rak-at rồi cho Salam.
8- Hãy Takbir và vào cùng với Imam. Nếu vào kịp lúc Imam đang Ruku' thì coi như đã theo kịp một Rak-at cùng với Imam, còn không thì Rak-at không được tính (nhưng sẽ có ân phước).
9- Nếu trường hợp đến bị trễ một hay nhiều Rak-at thì cứ vào dâng lễ cùng với Imam nhưng không cho Salam cùng với Imam mà hãy đứng dậy để hoàn tất những phần còn thiếu.
* * *
1- « صَلُّوا كَمَا رَأَيْتُمُونِى أُصَلِّى » (رواه البخاري)
1- “Hãy dâng lễ nguyện Salah như những gì các người nhìn thấy ta dâng lễ" (Albukhari).
2- « إِذَا دَخَلَ أَحَدُكُمُ الْمَسْجِدَ فَلْيَرْكَعْ رَكْعَتَيْنِ قَبْلَ أَنْ يَجْلِسَ» (رواه البخاري)
2- “Khi ai đó trong các người vào Masjid thì y hãy dâng lễ hai Rak-at trước khi y ngồi xuống" (Albukhari).
3- « لاَ تَجْلِسُوا عَلَى الْقُبُورِ وَلاَ تُصَلُّوا إِلَيْهَا » (رواه مسلم)
3- “Các người đừng ngồi nơi mồ mả và cũng đừng dâng lễ hướng về đó" (Muslim).
4- « إِذَا أُقِيمَتِ الصَّلاَةُ فَلاَ صَلاَةَ إِلاَّ الْمَكْتُوبَةُ » (رواه مسلم)
4- “Một khi Iqa-mah (lời thông báo tiến hành cuộc dâng lễ) đã được cất lên thì sẽ không có lễ nguyện Salah nào khác ngoài Salah bắt buộc cả" (Muslim).
5- «أُمِرْتُ أَنْ لاَ أَكُفَّ ثَوْباً» (رواه مسلم)
5- “Ta được lệnh không được xăn áo lên" (Muslim) (Trong Salah, cấm không được xăn tay áo hay vạt áo).
6- « أَقِيمُوا صُفُوفَكُمْ وَتَرَاصُّوا » وفِي رِوَايِةٍ: «وَكَانَ أَحَدُنَا يُلْزِقُ مَنْكِبَهُ بِمَنْكِبِ صَاحِبِهِ وَقَدَمَهُ بِقَدَمِهِ» (رواه البخاري)
6- “Hãy chỉnh đốn hàng ngủ của các người cho thẳng và hãy đứng sát kề nhau" và trong một lời dẫn khác: “Và chúng tôi thường đứng khít nhau, vai kề vai, bàn chân sát bàn chân". (Albukhari)
7- « إِذَا أُقِيمَتِ الصَّلاَةُ فَلاَ تَأْتُوهَا وَأَنْتُمْ تَسْعَوْنَ ، وَأْتُوهَا تَمْشُونَ عَلَيْكُمُ السَّكِينَةُ ، فَمَا أَدْرَكْتُمْ فَصَلُّوا ، وَمَا فَاتَكُمْ فَأَتِمُّوا » (متفق عليه)
7- “Khi lễ nguyện Salah đã được tiến hành thì các người chớ chạy đến một cách hối hả, mà hãy đi một cách từ tốn, các người phải điềm đạm và bình tĩnh. Bởi thế, những gì các người theo kịp thì cứ vào dâng lễ, còn những gì mà các ngươi đến không kịp thì các người hãy hoàn tất chúng!" (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).
8- «ارْكَعْ حَتَّى تَطْمَئِنَّ رَاكِعًا ، ثُمَّ ارْفَعْ حَتَّى تَعْتَدِلَ قَائِمًا ، ثُمَّ اسْجُدْ حَتَّى تَطْمَئِنَّ سَاجِدًا» (رواه البخاري)
8- “Hãy cúi gập người Ruku' cho tới khi động tác Ruku' đã thật sự là Ruku', rồi hãy trở dậy đứng thẳng một cách nghiêm trang, rồi hãy Sujud cho tới khi động tác Sujud đã thật sự là Sujud" (Albukhari).
9- « إِذَا سَجَدْتَ فَضَعْ كَفَّيْكَ وَارْفَعْ مِرْفَقَيْكَ » (رواه مسلم)
9- “Khi nào ngươi Sujud thì hãy đặt bàn tay xuống và đưa cùi chỏ cao lên" (Muslim).
10- « إِنِّى إِمَامُكُمْ فَلاَ تَسْبِقُونِى بِالرُّكُوعِ وَلاَ بِالسُّجُودِ » (رواه مسلم)
10- “Quả thật ta là Imam (người chủ trì cuộc lễ nguyện) của các người, nên các người đừng Ruku' và Sujud trước ta" (Muslim).
11- «أَوَّلُ مَا يُحَاسَبُ بِهِ العَبْدُ يَوْمَ القِيَامَةِ الصَّلاَةُ فَإِنْ صَلُحَتْ صَلُحَ لَهُ سَائِرُ عَمَلِهِ، وَإِنْ فَسَدَتْ فَسَدَ سَائِرُ عَمَلِهِ» (حديث صحيح رواه الطبراني)
11- “Việc đầu tiên mà người bề tôi được mang ra xét xử vào Ngày phục sinh là lễ nguyện Salah. Bởi thế, nếu lễ nguyện Salah được hoàn thành một cách tốt đẹp thì những việc làm khác còn lại cũng sẽ tốt đẹp, nhưng nếu lễ nguyện Salah không được tốt đẹp thì những việc làm khác còn lại cũng sẽ không tốt đẹp" (Hadith xác thực do Attabra-ni ghi lại).
Lễ nguyện Salah Al-Jum'ah và lễ nguyện Salah tập thể là điều bắt buộc đối với mỗi tín đồ Muslim nam. Điều này được dựa trên các bằng chứng sau đây:
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ إِذَا نُودِيَ لِلصَّلَوٰةِ مِن يَوۡمِ ٱلۡجُمُعَةِ فَٱسۡعَوۡاْ إِلَىٰ ذِكۡرِ ٱللَّهِ وَذَرُواْ ٱلۡبَيۡعَۚ ذَٰلِكُمۡ خَيۡرٞ لَّكُمۡ إِن كُنتُمۡ تَعۡلَمُونَ ﮊ (سورة الجمعة: 9)
{Hỡi những ai có đức tin, khi tiếng Azan được cất lên gọi các ngươi đến dâng lễ nguyện Salah Al-Jum'ah vào ngày thứ sáu thì các ngươi hãy tạm gác lại việc mua bán mà nhanh chân đến (Masjid) để tưởng nhớ Allah. Đó là việc tốt đẹp cho các người nếu các người nhận thức được} (Chương 62 – Al-Jum'ah, câu 9).
2- Nabi Muhammad e nói:
« مَنِ اغْتَسَلَ ثُمَّ أَتَى الْجُمُعَةَ فَصَلَّى مَا قُدِّرَ لَهُ ثُمَّ أَنْصَتَ حَتَّى يَفْرُغَ مِنْ خُطْبَتِهِ ثُمَّ يُصَلِّىَ مَعَهُ غُفِرَ لَهُ مَا بَيْنَهُ وَبَيْنَ الْجُمُعَةِ الأُخْرَى وَفَضْلَ ثَلاَثَةِ أَيَّامٍ » (رواه مسلم)
“Ai tắm rửa sạch sẽ rồi đến dự ngày lễ thứ sáu, y đến và dâng lễ nguyện theo những gì được quy định, xong y ngồi im lặng cho đến khi vị Imam hoàn tất bài thuyết giảng rồi y dâng lễ nguyện Salah cùng với Imam thì y sẽ được tha thứ tội lỗi từ ngày thứ sáu này cho đến ngày thứ sáu tới và được thêm cho ba ngày nữa" (Muslim).
3- Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ تَرَكَ ثَلاَثَ جُمَعٍ تَهَاوُناً مِنْ غَيْرِ عُذْرٍ طَبَعَ اللهُ تَبَارَكَ وَتَعَالَى عَلَى قَلْبِهِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Ai lơ là bỏ ba lần Jum'ah (tức lễ nguyện tập thể ngày thứ sáu)" mà không có lý do chính đáng, Allah, Đấng Tối Cao sẽ đóng dấu vào trái tim của y" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
4- Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ صَلَّى الْعِشَاءَ فِى جَمَاعَةٍ فَكَأَنَّمَا قَامَ نِصْفَ اللَّيْلِ وَمَنْ صَلَّى الصُّبْحَ فِى جَمَاعَةٍ فَكَأَنَّمَا صَلَّى اللَّيْلَ كُلَّهُ » (رواه مسلم)
“Ai dâng lễ nguyện Salah Al-'Isha tập thể thì giống như y đã đứng dâng lễ nguyện đến nửa đêm, còn ai dâng lễ nguyện Salah Al-Fajr tập thể thì giống như y đã đứng dâng lễ nguyện suốt đêm" (Muslim).
5- Nabi Muhammad e nói:
« لَقَدْ هَمَمْتُ أَنْ آمُرَ فِتْيَتِى فَيَجْمَعُوا حُزَمًا مِنْ حَطَبٍ ، ثُمَّ آتِىَ قَوْمًا يُصَلُّونَ فِى بُيُوتِهِمْ لَيْسَتْ بِهِمْ عِلَّةٌ فَأُحَرِّقُهَا عَلَيْهِمْ » (رواه أبو داود، الترمذي والبيهقي)
“Quả thật ta muốn ra lệnh cho những đám thanh niên của ta đi gom những bó củi, rồi ta đến nhóm người dâng lễ nguyện tại nhà của họ nhưng không có lý do chính đáng nào cả để ta thêu đốt họ" (Hadith xác thực do Abu Dawood, Attirmizhi và Albayhaqi ghi lại).
6- Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ سَمِعَ النِّدَاءَ فَلَمْ يَأْتِهِ فَلاَ صَلاَةَ لَهُ إِلاَّ مِنْ عُذْرٍ » (حديث صحيح رواه ابن ماجه)
“Ai nghe thấy tiếng mời gọi của Azan mà không đến với nó thì lễ nguyện của người đó không được chấp nhận ngoại trừ có lý do chính đáng". Lý do chính đáng ở đây là sự sợ hãi hay bệnh tật. (Hadith xác thực do Ibnu Ma-jah ghi lại).
7- Hadith về người đàn ông bị mù:
أَتَى النَّبِىَّ -صلى الله عليه وسلم- رَجُلٌ أَعْمَى فَقَالَ يَا رَسُولَ اللهِ إِنَّهُ لَيْسَ لِى قَائِدٌ يَقُودُنِى إِلَى الْمَسْجِدِ. فَسَأَلَ رَسُولَ اللهِ-صلى الله عليه وسلم- أَنْ يُرَخِّصَ لَهُ فَيُصَلِّىَ فِى بَيْتِهِ فَرَخَّصَ لَهُ فَلَمَّا وَلَّى دَعَاهُ فَقَالَ « هَلْ تَسْمَعُ النِّدَاءَ بِالصَّلاَةِ ». فَقَالَ نَعَمْ. قَالَ « فَأَجِبْ » (رواه مسلم)
Có một người đàn ông mù đã đến gặp Thiên sứ của Allah, Muhammad e, ông ta nói: Thưa Thiên sứ của Allah, quả thật, tôi không có ai dắt tôi đến Masjid cả, và ông hỏi Người rằng ông có được miễn đến Masjid để dâng lễ hay không? Người e hỏi ông: “Ông có nghe được tiếng Azan không?". Người đàn ông mù nói: Thưa có. Người bảo: “Thế thì hãy đáp lại lời Azan". (Muslim).
8- Abdullah bin Mas-ud t nói: Người nào được báo tin vui rằng ngày mai y sẽ gặp Allah với tư cách là một tín đồ Muslim thì hãy gìn giữ những năm cuộc lễ nguyện Salah này khi mà chúng được mời gọi bởi tiếng Azan. Bởi quả thật, Allah đã sắc lệnh cho Nabi của các người những đường lối được hướng dẫn, và những đường lối đó là từ sự Chỉ đạo. Nếu các người dâng lễ nguyện tại nhà của các người giống như những kẻ trốn tránh bổn phận thì các người thực sự bỏ đi đường lối của Nabi các người, còn nếu như các người bỏ đi đường lối của Nabi các người thì các người thực sự đã lầm lạc. Và chắc chắn chúng ta đã thấy rằng chỉ có những kẻ đạo đức giả mới trốn tránh bổn phận tôn giáo, và quả thật đã có người phải nhờ đến hai người kè hai bên mới có thể đứng vào hàng được. (Muslim).
1- Tôi tắm ngày thứ sáu, tôi cắt móng tay, chân, mặc bộ quần áo sạch đẹp, xức dầu thơm sau khi đã lấy Wudu xong.
2- Tôi không ăn tỏi, hành sống, không hút thuốc, tôi làm sạch răng miệng bằng Siwak hoặc kem đánh răng.
3- Tôi dâng lễ hai Rak-at ngay khi vào Masjid, ngay cả lúc Imam đang đọc bài thuyết giảng.
4- Xong hai Rak-at, tôi ngồi im lặng lắng nghe bài thuyết giảng của Imam.
5- Tôi dâng lễ hai Rak-at cho lễ nguyện Salah Al-Jum'ah cùng với Imam với sự định tâm trong tim.
6- Tôi dâng lễ Sunnah bốn Rak-at sau khi đã xong lễ nguyện Al-Jum'ah, hoặc tôi dâng lễ Sunnah hai Rak-at tại nhà.
Bạn hãy định tâm trong tim của mình, Takbir (tức nói “الله أكبر" “Ollo-hu-Akbar" bốn lần:
1- Sau Takbir thứ nhất, bạn hãy đọc “A'u-zhu ..", “Bissmillah,..." và bài Fatihah.
2- Sau Takbir thứ hai, bạn hãy đọc bài Salawat cho Nabi e.
3- Sau Takbir thứ ba, bạn hãy đọc lời du-a đã được Nabi Muhammad e chỉ dạy, và đó là:
« اللَّهُمَّ اغْفِرْ لِحَيِّنَا وَمَيِّتِنَا وَشَاهِدِنَا وَغَائِبِنَا وَصَغِيرِنَا وَكَبِيرِنَا وَذَكَرِنَا وَأُنْثَانَا اللَّهُمَّ مَنْ أَحْيَيْتَهُ مِنَّا فَأَحْيِهِ عَلَى الإِسْلاَمِ وَمَنْ تَوَفَّيْتَهُ مِنَّا فَتَوَفَّهُ عَلَى الإِيمَانِ اللَّهُمَّ لاَ تَحْرِمْنَا أَجْرَهُ وَلاَ تُضِلَّنَا بَعْدَهُ »
“Ollo-humma ighfir lihayyina wa mayyitina wa sha-hidina wa gha-ibina wa soghi-rina wa kabi-rina wa zhakarina wa untha-na. Ollo-humma man ahyaytahu minna fa ahyihi 'alal Islam, wa man tawaffaytahu minna fa tawafahu 'alal Iman. Ollo-humma la tahrimna ajrohu wala tudhillana ba'dahu"
“Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy tha thứ tội lỗi cho chúng con, những ai còn sống cũng như đã chết, những ai có mặt cũng như vắng mặt, những người trẻ cũng như những người già, nam và nữ. Lạy Thượng Đế, người nào trong chúng con mà Ngài muốn cho y sống thì xin Ngài hãy để y sống trong Islam, còn người nào mà Ngài muốn cho y chết thì hãy để y chết trong Iman. Lạy Thượng Đế, xin Ngài đừng cấm đoán những ân phước đối với y và cũng đừng để y bị lệch lạc!".
4- Sau Takbir lần thứ tư, bạn hãy cầu nguyện tùy thích theo ý của bạn rồi cho Salam bên phải.
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋكُلُّ نَفۡسٖ ذَآئِقَةُ ٱلۡمَوۡتِۗ وَإِنَّمَا تُوَفَّوۡنَ أُجُورَكُمۡ يَوۡمَ ٱلۡقِيَٰمَةِۖ فَمَن زُحۡزِحَ عَنِ ٱلنَّارِ وَأُدۡخِلَ ٱلۡجَنَّةَ فَقَدۡ فَازَۗ وَمَا ٱلۡحَيَوٰةُ ٱلدُّنۡيَآ إِلَّا مَتَٰعُ ٱلۡغُرُورِ ١٨٥ ﮊ (سورة آل عمران : 185)
{Mỗi linh hồn đều phải nếm cái chết. Và chỉ vào Ngày Phục sinh, các ngươi mới được đền bù lại trọn vẹn phần công lao của các ngươi. Bởi thế, ai được bốc đi xa khỏi Hỏa ngục và được thu nhận vào Thiên đàng thì người đó chắc chắn được thành công. Và Thế giới trần gian này chỉ là sự hưởng thụ đầy dối trá.} (Chương 3 – Ali 'Imaran, câu 185).
Lời của nhà thơ nói:
Hành trang cho điều ắt sẽ đến:
Chết là điềm dừng cho đám tôi.
Hãy sám hối lúc vẫn còn sống,
Nỗ lực điều thiện và điều tốt,
Trước khi chìm vào giấc thiên thu.
Không mang hành trang sẽ hối hận,
Sẽ đau khổ khi được gọi tên.
Hài lòng sao đặng khi cùng với
Người có hành trang và lương thực
còn mình thì chẳng có thứ gì?
* * *
Nabi Muhammad e nói:
« لَوْ يَعْلَمُ الْمَارُّ بَيْنَ يَدَىِ الْمُصَلِّى مَاذَا عَلَيْهِ لَكَانَ أَنْ يَقِفَ أَرْبَعِينَ خَيْرًا لَهُ مِنْ أَنْ يَمُرَّ بَيْنَ يَدَيْهِ » . قَالَ أَبُو النَّضْرِ لاَ أَدْرِى أَقَالَ أَرْبَعِينَ يَوْمًا أَوْ شَهْرًا أَوْ سَنَةً (رواه البخاري)
“Nếu mà người đi ngang trước mặt người đang dâng lễ nguyện Salah biết được những gì y phải gánh chịu cho việc làm đó thì chắc chắn rằng việc y đứng dừng lại mà đợi cho dù có lâu tới bốn mươi... thì điều đó vẫn tốt hơn việc y đi ngang trước mặt của người đang dâng lễ". Ông Abu Annadhri nói: Tôi không rõ là bốn mươi ngày, bốn mươi tháng hay bốn mươi năm. (Hadith này do Albukhari ghi lại trong bộ Hadith Sahih của ông ở chương “Tội lỗi cho người đi ngang trước mặt người đang dâng lễ nguyện Salah", quyển một trang 129).
Hadith này đã chỉ rõ về việc đi ngang qua trước mặt người đang dâng lễ trong phạm vi Sujud là một việc làm tội lỗi sẽ bị trừng phạt. Nếu người đi ngang này biết được tội lỗi mà y phải gánh chịu thì chắc chắn y sẽ đứng lại mà đợi dù có phải đứng đợi đến bốn mươi ngày, hoặc tháng hoặc năm. Tuy nhiên, nếu đi ngang xa phạm vị Sujud thì không vấn đề gì bởi dựa theo những gì được hiểu từ nội dung Hadith.
Người dâng lê nguyện Salah phải đặt một vật chắn phía trước mặt để lưu y cho người đi ngang qua lại để họ khỏi đi ngang qua trước mặt trong pham vi Sujud, bởi Nabi Muhammad e nói:
« إِذَا صَلَّى أَحَدُكُمْ إِلَى شَىْءٍ يَسْتُرُهُ مِنَ النَّاسِ ، فَأَرَادَ أَحَدٌ أَنْ يَجْتَازَ بَيْنَ يَدَيْهِ فَلْيَدْفَعْهُ ، فَإِنْ أَبَى فَلْيُقَاتِلْهُ ، فَإِنَّمَا هُوَ شَيْطَانٌ » (متفق عليه)
“Khi nào ai đó trong các người dâng lễ thì hãy đặt một vật chắn để tránh mọi người, nhưng nếu có ai đó muốn đi ngang qua thì y hãy đẩy lùi người đó ra, nếu như người đó chống cự thì y hãy chiến đấu với người đó bởi chắc chắn người đó là Shaytan" (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).
Và đây là hadith xác thực được Albukhari ghi lại. Và điều nhắc nhở phải thận trọng về việc đi ngang trước mặt người đang dâng lễ bao hàm cả ở trong Masjid Alharam và Masjid của Nabi, bởi lời Hadith là tổng quát và chung chung, và hơn nữa, Nabi e nói lời Hadith này là lúc Người đang ở Makkah hoặc Madinah. Và cơ sở để khẳng định cho điều này là những dẫn chứng dưới đây:
1- Albukhari đã đề cập trong quyển 1 trang 129 ở chương (Người dâng lễ đẩy lùi những ai đi ngang qua trước mặt).
Ibnu Umar đã đẩy lùi người đi ngang trước mặt ông khi ông đang ngồi Tashahhud ở tại Ka'bah, và ông nói: Nếu y không lùi lại thì ta sẽ chiến đấu với y. Ông Al-Hafizh nói trong bộ Fathul-Ba-ri: Ibnu Umar nói cụ thể về Ka'bah mang hàm ý để mọi người khỏi phải nghĩ rằng việc đi ngang trước mặt người đang dâng lễ tại nơi đó được xí xóa vì nơi đó thường tập trung đông người. Và quả thật, trong sách “Lễ nguyện Salah" của Abu Na'i-m sau này đều có đề cập đến việc này (tức việc Ibnu Umar đã đẩy lùi người đi ngang trước mặt ông) và luôn có kèm theo địa điểm Ka'bah như Sheikh Albukhari đã đề cập.
2- Còn riêng đối với Hadith được Abu Dawood ghi nhận trong bộ Sunan của ông là không xác thực, bởi có sự không rõ ràng trong đường dẫn truyền. Và toàn bộ Hadith như sau:
Ahmad bin Hambal thuật lại: Sufyan bin Uyaynah nói rằng nhiều và nhiều người từ con cháu của Abdul-Muttalib bin Abu Wida-'ah đã kể lại từ một số người thần của họ, và một số người thân này được kể lại rằng ông của họ đã nhìn thấy Nabi e dâng lễ ở chỗ gần bani Saham trong lúc mọi người đang đi ngang trước mặt Người, và Người không đặt một cái gì để chắn trước mặt cả. Sufyan nói: Khoảng giữa Người và Ka'bah không có vật chắn nào cả. Sufyan nói: Điều này là do Ibn Jari-j kể lại rằng có nhiều người đã được thuật lại từ cha của ông nhưng khi ông hỏi lại thì được biết rằng cha của ông không chính tai nghe mà chỉ được kể lại từ một số người thân và một số người thân này lại được một người ông của họ kể lại.
Al-Hafizh nói trong bộ Al-Fath: Hadith này không có căn cứ.
3- Và trong bộ Albukhari, ở chương (Đặt vật chắn ngay cả ở Makkah và những nơi khác): Theo lời thuật của Abu Juhayfah rằng Thiên sứ của Allah e đã rời Ha-jirah và dâng lễ tại Batha (thuộc Makkah) lễ nguyện Al-Zhuhr và Al-Asr hai Rak-at và Người đã đặt trước mặt một cây giáo.
Tóm lại: Việc đi ngang trước mặt ngay chỗ Sujud của người đang dâng lễ nguyện Salah khi y đã để vật chắn trước mặt là Haram, việc làm này mang tội sẽ phải chịu sự trừng phạt rất nặng, điều này được quy định ở bất kỳ nơi nào, dù ở tại Al-haram (Makkah) hãy ở những nơi khác, căn cứ theo các Hadith xác thực đã được trình bày.
* * *
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ كُتِبَ عَلَيۡكُمُ ٱلصِّيَامُ كَمَا كُتِبَ عَلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكُمۡ لَعَلَّكُمۡ تَتَّقُونَ ١٨٣ ﮊ (سورة البقرة: 183)
{Hỡi những ai có đức tin, việc nhịn chay đã được sắc lệnh cho các ngươi giống như nó đã được sắc lệnh cho những người trước các ngươi, mong rằng các ngươi sẽ ngay chính và ngoan đạo} (Chương 2 – Albaqarah, câu 183).
Nabi Muhammad e nói:
« الصِّيَامُ جُنَّةٌ » (متفق عليه)
“Nhịn chay là tấm chắn" (khỏi lửa của Hỏa ngục). (Hadith được thống nhất về tính thống nhất của nó).
Quí đồng đạo thân hữu, chúng ta hãy biết rằng nhịn chay là một việc làm thờ phượng, đồng thời cũng mang lại nhiều lợi ích:
1- Nhịn chay giúp hệ tiêu hóa và dạ dày được nghỉ ngơi trong suốt quá trình hoạt động mệt mỏi, tống khứ hết những phần dư thừa, tăng cường sức chịu đựng cho cơ thể, đồng thời cũng có lợi trong việc trừ khử nhiều chứng bệnh. Bên cạnh đó, nhịn chay giúp người hút thuốc có thời gian tạm ngừng và giúp họ cai thuốc lá một cách dễ dàng.
2- Nhịn chay rèn luyện tinh thần, giúp nó có thói quen với điều thiện tốt, nề nếp, vâng lệnh, và kiên nhẫn.
3- Người nhịn chay sẽ cảm thấy được sự bình đẳng giữa những người đồng đạo đang nhịn chay vì họ cùng nhau nhịn chay rồi cùng nhau xả chay. Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết của toàn thể Islam. Ngoài ra, người nhịn chay sẽ cảm nhận được những đói khát của những anh em đồng đạo nghèo đói để biết thông cảm mà sẵn sàng chia sớt với họ.
4- Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ صَامَ رَمَضَانَ إِيمَانًا وَاحْتِسَابًا غُفِرَ لَهُ مَا تَقَدَّمَ مِنْ ذَنْبِهِ » (رواه البخاري ومسلم)
“Ai nhịn chay Ramadan với cả đức tin và niềm hy vọng, y sẽ được tha thứ những tội lỗi đã qua" (Albukhari, Muslim).
« مَنْ صَامَ رَمَضَانَ ثُمَّ أَتْبَعَهُ سِتًّا مِنْ شَوَّالٍ كَانَ كَصِيَامِ الدَّهْرِ » (رواه مسلم)
“Ai nhịn chay Ramadan rồi nhịn thêm sáu ngày của tháng Shauwal thì coi như y đã nhịn chay nguyên năm" (Muslim).
« مَنْ قَامَ رَمَضَانَ إِيمَانًا وَاحْتِسَابًا غُفِرَ لَهُ مَا تَقَدَّمَ مِنْ ذَنْبِهِ » (متفق عليه)
“Ai đứng dâng lễ nguyện Salah hằng đêm của Ramadan với đức tin và niềm hy vọng, y sẽ được tha thứ những tội lỗi đã qua" (Albukhari, Muslim).
Quý đồng đạo thân hữu, chúng ta hãy biết rằng quả thật Allah đã sắc lệnh cho chúng ta việc nhịn chay để chúng ta thờ phượng Ngài. Do đó, để sự nhịn chay của chúng ta được chấp nhận và mang lại điều hữu ích thì hãy làm những điều sau đây:
1- Gìn giữ các lễ nguyện Salah một cách chu đáo. Bởi có không ít người nhịn chay đã lơ là và bê tha việc dâng lễ nguyện Salah trong khi lễ nguyện Salah là trụ cột của tôn giáo.
2- Hãy là người có phẩm chất đạo đức tốt, tránh những điều khiến trở nên vô đức tin, xúc phạm tôn giáo, những hành vi cư xử không tử tế với mọi người và những gì làm hỏng việc nhịn chay. Bởi lẽ, nhịn chay là để rèn luyện bản thân chứ không phải làm xấu đi tâm tánh; và điều khiến trở nên vô đức tin chắc chắn bị trục xuất khỏi đạo.
3- Không nói lời tục tĩu cho dù chỉ là những lời nói đùa, bởi nó sẽ khiến sự nhịn chay của chúng ta mất đi giá trị của nó. Nabi Muhammad e nói:
« إِذَا كَانَ يَوْمُ صَوْمِ أَحَدِكُمْ فَلاَ يَرْفُثْ يَوْمَئِذٍ وَلَا يَصْخَبْ: فَإِ شَاتَمَهُ أَحَدٌ أَوْ قَاتَلَهُ فَلْيَقُلْ إِنِّيْ صَائِمٌ إِنِّيْ صَائِمٌ » (متفق عليه)
“Nếu trong ngày nhịn chay của ai đó trong các người thì y chớ nói lời sàm bậy cũng như quát mắng ầm ĩ. Nếu như có ai đó chửi bới hoặc gây chiến với y thì y hãy nói: Tôi đang nhịn chay, tôi đang nhịn chay" (Albukhari, Muslim).
4- Lợi dụng cơ hội nhịn chay mà cai thuôc lá, nguyên nhân của bệnh ung thư và viêm loét, hãy cố gắng mà quyết chí cai thuốc lá đối với ai nghiện thuốc lá! Bởi lẽ bỏ được thuốc lá thì chúng ta mới khỏe mạnh và không lãng phí tiền của.
5- Đừng phung phí thức ăn, đồ uống khi xả chay vì điều đó sẽ làm mất đi ý nghĩa của nhịn chay, và cũng đừng quá tham ăn bởi vì điều đó có thể gây không tốt cho sức khỏe.
6- Đừng nên đến rạp chiếu phim hay xem ti vi để khỏi xem những điều làm hỏng đi đạo đức và phản lại với việc nhịn chay.
7- Đừng nên quá thức khuya để rồi bỏ lỡ bữa ăn Suhur và lễ nguyện Salah Al-Fajr. Chúng ta nên hoạt động vào lúc sáng sớm bởi Nabi Muhammad e đã cầu nguyện:
« اللَّهُمَّ بَارِكْ لأُمَّتِى فِى بُكُورِهَا » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy ban phúc lành cho cộng đồng của bề tôi vào những buổi sáng mai" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
8- Bố thí thật nhiều cho người thân thuộc và những người túng thiếu, thăm viếng nhau để gắn kết thâm tình, và đi hòa giải những cuộc cãi cọ, hiềm khích.
9- Nhiều tụng niệm và tán dương Allah, đọc và nghe Qur'an, nghiền ngẫm ý nghĩa của nó (Qur'an) và thực hành theo, đến Masjid để lắng nghe các bài học giảng đạo hữu ích và nên I'tikaf (ở lại Masjid) trong những ngày cuối của Ramadan.
10- Tìm đọc những thông điệp về nhịn chay và những kiến thức tôn giáo bổ ích khác để hiểu biết thêm các giáo luật, về nhịn chay thì chúng ta sẽ biết được rằng việc lỡ quên mà ăn hoặc uống trong lúc nhịn chay thì không làm hư nhịn chay, và những ai đang trong tình trạng Junub (chưa tắm sau khi sinh hoạt vợ chồng) trong đêm vẫn nhịn chay bình thường, bởi vì việc tắm rửa chỉ bắt buộc khi muốn dâng lễ nguyện Salah mà thôi.
11- Cố gắng hoàn tất nhịn chay nguyên tháng Ramadan, tập cho trẻ con làm quen với việc nhịn chay theo khả năng của chúng. Hãy coi chừng đừng xả chay mà không có lý do chính đáng, bởi người nào không nhịn chay một ngày trong tháng Ramadan một cách cố ý thì y phải nhịn trả lại và sám hối với Allah.
Và người nào sinh hoạt ân ái với vợ của y trong lúc nhịn chay thì phải chịu phạt Kaffa-rah([4])
12- Anh em đồng đạo thân hữu, hãy coi chừng việc không nhịn chay trong tháng Ramadan, đặc biệt là là chúng ta ăn uống công khai trước mặt mọi người! Bởi lẽ, không nhịn chay trong tháng Ramadan là một sự liều lĩnh đầy thách thức trước Allah, coi nhẹ Islam, không biết hổ thẹn với mọi người. Hãy biết rằng ai không nhịn chay thì ngày lễ Eid chỉ là vô nghĩa với y bởi vì ngày lễ Eid là ngày đại vui ăn mừng việc hoàn thành bổn phận nhịn chay, ăn mừng vì sự được chấp nhận việc hành đạo.
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلِلَّهِ عَلَى ٱلنَّاسِ حِجُّ ٱلۡبَيۡتِ مَنِ ٱسۡتَطَاعَ إِلَيۡهِ سَبِيلٗاۚ وَمَن كَفَرَ فَإِنَّ ٱللَّهَ غَنِيٌّ عَنِ ٱلۡعَٰلَمِينَ ﮊ (سورة آل عمران: 97)
{Và để phụng mệnh Allah thì bắt buộc con người phải đi hành hương Hajj tại ngôi đền thiêng liêng Ka'bah khi có điều kiện, và kẻ nào phủ nhận và bất tuân thì quả thật Allah là Đấng Giàu Có nhất trong toàn vũ trụ} (Chương 3 - Ali-'Imran, câu 97).
2- Nabi Muhammad e nói:
« الْعُمْرَةُ إِلَى الْعُمْرَةِ كَفَّارَةٌ لِمَا بَيْنَهُمَا ، وَالْحَجُّ الْمَبْرُورُ لَيْسَ لَهُ جَزَاءٌ إِلاَّ الْجَنَّةُ » (متفق عليه)
“Allah sẽ xóa tội của thời gian từ lần Umrah này đến lần Umrah khác, và cuộc hành hương Hajj được chấp nhận([5]) thì phần thưởng không gì hơn là Thiên Đàng" (Albukhari, Muslim).
3- Nabi Muhammad e nói:
«مَنْ حَجَّ فَلَمْ يَرْفُثْ وَلَمْ يَفْسُقْ رَجَعَ مِنْ ذُنُوْبِهِ كَيَوْمِ وَلَدَتْ أُمِّهِ» (متفق عليه)
“Ai làm Hajj mà không dâm dục, không làm điều tội lỗi thì sẽ trở lại y như thuở mới lọt lòng mẹ" (Albukhari, Muslim).
4- Nabi Muhammad e nói:
« خُذُوْا عَنِّيْ مَنَاسِكَكُمْ » (رواه مسلم)
“Các người hãy làm theo cách thức thực hiện Hajj của ta" (Muslim).
5- Hãy gấp rút thực hiện bổn phận hành hương Hajj khi nào chúng ta có đủ điều kiện về tiền bạc, sức khỏe và lộ trình thuận tiện, chỉ cần đủ chi phí cho chuyến đi không nhất thiết phải chuẩn bị phần tiền lo quà cáp và Allah sẽ không chấp nhận đó là lý do để trì hoãn Hajj. Hãy mau mau thực hiện Hajj trước khi bị bệnh, hoặc nghèo hay lìa cõi đời, bởi lẽ Hajj là một trụ cột trong các trụ cột của Islam.
6- Tiền được dùng cho cuộc hành hương Hajj và Umrah phải là tiền Halal thì Allah mới chấp nhận.
7- Phụ nữ không được đi làm Hajj hay Umrah mà không có người Mahram (người đàn ông mà người phụ nữ đó không được lấy làm chồng như cha, anh em trai, chú bác ruột,...) đi cùng, bởi Nabi Muhammad e có di huấn:
« وَلاَ تُسَافِرِ الْمَرْأَةُ إِلاَّ مَعَ ذِى مَحْرَمٍ » (متفق عليه)
“Và người phụ nữ không được đi đường xa mà không có người Mahram đi cùng" (Albukhari, Muslim).
8- Không được làm lễ hôn ước tạm thời trong dịp Hajj hay bất cứ thời điểm nào khác bởi đó là hình thức Mut'ah (khoái trá) đã được xóa bỏ và bị nghiêm cấm.
9- Trước khi đi Hajj hãy làm hòa mọi hiềm khích của bản thân, trả hết nợ nần, và dặn dò người thân không nên phung phí, bởi Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋ وَكُلُواْ وَٱشۡرَبُواْ وَلَا تُسۡرِفُوٓاْﮊ (سورة الأعراف : 31)
{Các ngươi hãy ăn và hãy uống nhưng chớ phung phí!} (Chương 7 – Al-A'raf, câu 31).
10- Hajj là một đại hội của người Muslim. Đây là dịp để giao lưu và kết nối tình hữu nghị, trao đổi hỗ trợ giúp đỡ nhau để giải quyết những vấn đề khó khăn của nhau, cùng nhau cải thiện cho đạo và đời luôn tốt đẹp.
11- Một điều quan trọng là tìm hướng khắc phục các vấn đề bằng cách cùng nhau cầu xin Allah phù hộ và giúp đỡ, bởi lẽ cầu xin Allah là điều tốt nhất. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋقُلۡ إِنَّمَآ أَدۡعُواْ رَبِّي وَلَآ أُشۡرِكُ بِهِۦٓ أَحَدٗا ٢٠ ﮊ (سورة الجن : 20)
{Hãy bảo chúng: “Ta chỉ cầu nguyện Thượng Đế của ta và không bao giờ làm điều Shirk (gán ghép cùng với Allah một đối tác ngang hàng) với Ngài một điều gì} (Chương 72 – Al-Jinn, câu 20).
12- Được phép là Umrah bất kỳ thời điểm nào, tuy nhiên, làm Umrah trong tháng Ramadan sẽ tốt hơn bởi Nabi Muhammad e có di huấn:
« عُمْرةٌ رَمَضَانَ تَعْدِلُ حَجَّةً » (متفق عليه)
“Umrah trong tháng Ramadan tương đương với Hajj" (Albukhari, Muslim).
13- Dâng lễ nguyện Salah tại Masjid Ka'bah tốt hơn môt trăm ngàn lần dâng lễ tại các Masjid khác bởi Nabi Muhammad e có nói:
« صَلاَةٌ فِى مَسْجِدِى هَذَا أَفْضَلُ مِنْ أَلْفِ صَلاَةٍ فِيمَا سِوَاهُ إِلاَّ الْمَسْجِدَ الْحَرَامَ » (رواه مسلم)
“Dâng lễ nguyện Salah tại Masjid này của ta (tức Masjid Nabawi tại Madinah ngày nay) tốt hơn một ngàn lần dâng lễ nguyện tại các Masjid khác trừ Masjid Ka'bah (Al-Haram – Makkah)" (Muslim).
« وَصَلاَةٌ فِى الْمَسْجِدِ الْحَرَامِ أَفْضَلُ مِنْ صَلاَةٍ فِى مَسْجِدِى مِائَةِ صَلاَةٍ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Và dâng lễ nguyện Salah tại Masjid Al-Haram tốt hơn dâng lễ nguyện Salah tại Masjid của ta một trăm lần lễ nguyện" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
100 × 1000 = 100.000 (Một trăm ngàn lễ nguyện Salah).
* * *
1- Ihra-m: Mặc đồ Ihra-m tại Miqa-t([6]) rồi định tâm và nói (لَبَّيْكَ اللهُمَّ عُمْرَةً) (Labbayka ollo-humma Umrotan) có nghĩa là (Lạy Thượng Đế, bề tôi thực hiện Umrah theo lệnh Ngài). Sau đó, liên tục đọc lớn tiếng câu Talibi-yah:
لَبَّيْكَ اللَّهُمَّ لَبَّيْكَ ، لَبَّيْكَ لاَ شَرِيكَ لَكَ لَبَّيْكَ ، إِنَّ الْحَمْدَ وَالنِّعْمَةَ لَكَ وَالْمُلْكَ ، لاَ شَرِيكَ لَكَ
Labaykollo-humma labbayka, labbaykala shari-ka laka labbayk, innalhamda wanni'mata laka wakmulk, la shari-kalah.
(Thưa Allah, bề tôi xin vâng lệnh Ngài, vâng lệnh Ngài - Đấng duy nhất không có đối tác, quả thật, mọi ca ngợi, mọi ân phúc và mọi quyền lực ngự trị đều thuộc về Ngài không có đối tác chia sẽ cùng Ngài).
2- Tawaf: Khi đến Makkah, hãy đi tới Masjid Al-Haram, đi quanh ngôi đền Ka'bah bảy vòng bắt đầu từ góc có cục đá đen. Khi bắt đầu Tawaf hãy nhân danh Allah, nói: “بِسْمِ اللهِ وَاللهُ أَكْبَرُ" “Bissmillah, wollo-hu akbar" “Nhân danh Allah, Allah là Đấng Vĩ đại nhất". Và nếu có thể hãy đến hôn lên cục đá đen hoặc giơ tay phải lên ra dấu trước khi Tawaf. Và mỗi khi đến góc thứ tư của Ka'bah thì lấy tay phải chạm vào nó. Ở góc thứ tư này, không có hôn hay đưa tay ra dấu. Và từ góc thứ tư đến góc có cục đá đen, theo Sunnah hãy đọc du-a:
رَبَّنَا آتِنَا فِي الدُّنْيَا حَسَنَةً وَفِي الآخِرَةِ حَسَنَةً وَقِنَا عَذَابَ النَّارِ
Rabbana a-tina fiddunya hasanah wa fil-a-khiroti hasanah wa qina 'azha-ban na-ﷺ.
Lạy Thượng Đế, cầu xin Ngài ban cho chúng con những gì tốt đẹp nhất trên thế gian và những gì tốt đẹp nhất ở Ngày sau và xin Ngài hãy cứu rỗi chúng con khỏi Hỏa ngục.
Sau khi Tawaf xong thì dâng lễ nguyện Salah hai Rak-at đằng sau Maqa-m Ibrahim nếu có thể (còn không thì dâng lễ chỗ nào trong Masjid cũng được).
3- Sa-i: Đi lên đồi Safa, đứng quay mặt về Qiblah (Ka'bah) giơ hai tay lên trời và nói:
"إِنَّ الصَّفَا وَالْمَرْوَةَ مِنْ شَعَائِرِ اللهِ"
“Innas sofa wal marwata min sha-a-irilla-h"
“Quả thật, ngọn đồi Safa và Marwah là biểu hiệu của Allah"
أَبْدَأُ بِمَا بَدَأَ اللهُ بِهِ
Abda-u bima bada-ollo-hu bih
Tôi xin bắt đầu với những gì mà Allah đã bắt đầu.
اللهُ أَكْبَرُ ، اللهُ أَكْبَرُ ، اللهُ أَكْبَرُ
Ollo-hu akbar, Ollo-hu akbar, Ollo-hu akbar
Allah, Đấng vĩ đại nhất! Allah, Đấng vĩ đại nhất! Allah, Đấng vĩ đại nhất!
« لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ وَحْدَهُ لاَ شَرِيكَ لَهُ ، لَهُ الْمُلْكُ وَلَهُ الْحَمْدُ ، وَهْوَ عَلَى كُلِّ شَىْءٍ قَدِيرٌ ، لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ وَحْدَهُ ، أَنْجَزَ وَعْدَهُ ، صَدَقَ وَعْدَهُ ، وَنَصَرَ عَبْدَهُ ، وَهَزَمَ الأَحْزَابَ وَحْدَهُ »
“La ila ha illollo-h wahdahu la shari-kalah, lahul mulku wa lahul hamdu wa huwa 'ala kulli shay-il qadi-ﷺ, La ila ha illollo-h wahdah, anjaza wa'dah, sodaqo wa'dah, wa nasoro abdah, wa hazamal ahza-ba wahdah"
“Không có Đấng thờ phượng đích thực nào khác ngoài Allah duy nhất, không có đối tác cùng Ngài, mọi quyền ngự trị, mọi điều tán dương đều thuộc về Ngài, Ngài là Đấng có quyền năng trên mọi thứ. Không Đấng thờ phượng đích thực nào khác ngoài Allah duy nhất, Ngài là Đấng sẽ thực hiện lời hứa của Ngài, Ngài là Đấng giữ lời với bề tôi của Ngài và một mình Ngài đánh bại tất cả các bè phái" (nói 3 lần).
Cứ mỗi lần ở trên đồi Safa và Marwa thì đều nói như thế, sau đó cầu nguyện tùy thích. Từ Safa đến Marwa là một dòng và từ Marwa ngược lại là một dòng kế tiếp, cứ như thế bảy dòng tất cả, và mỗi khi đến hai vạch màu xanh thì chạy chầm chậm.
4- Cạo đầu hay cắt ngắn tóc (phải cạo toàn đầu, hoặc cắt ngắn đều toàn đầu), riêng nữ giới thì chỉ cần cắt đều một phần đuôi tóc khoảng chừng một đốt ngón tay.
* * *
Ihra-m, nghỉ qua đêm tại Mina, dừng chân tại Arafah, nghỉ qua đêm tại Muzdalifah, ném đá trụ Jamarat, giết tế, cạo đầu, Tawaf, và Sa-i.
1- Vào ngày mồng tám của tháng Zhul-hajj, tại Makkah, mặc đồ Ihra-m vào, định tâm và nói “Labbaykollo-humma hajatan", đây là phiên âm của “لَبَّيْكَ اللهم حجةً" có nghĩa là “Thưa Thượng Đế, chúng con thực hiện Hajj theo lệnh của Ngài". Sau đó, rời Makkah đến Mina và ở lại đó qua đêm. ở đây, chúng ta dâng lễ nguyện Salah theo hình thức Qasr (tức rút ngắn những lễ nguyện Salah gồm bốn Rak-at thành hai Rak-at như Salah Al-Zhuhr, Al-Asr và Al-'Isha).
2- Vào ngày mồng chín sau khi mặt trời mọc, rời Mina để đến Arafah. Ở đây chúng ta dâng lễ nguyện Salah Al-Zhuhr, Al-Asr theo hình thức Jam'u Taqdi-m (tức kéo lễ nguyện Al-Asr đến cùng với Al-Zhuhr: dâng lễ nguyện Al-Zhuhr xong thì tiếp tục Al-Asr luôn thể) bởi một Azan và hai Iqa-mah, không có lễ nguyện Salah Sunnah trước và sau.
Hãy chắc chắn rằng chúng ta đã thực sự trong phạm vị Arafah, không được nhịn chay, nên cầu nguyện Allah thật nhiều vào ngày này, bởi vì dừng chân tại Arafah là một Rukun (nghi thức nền tảng) của Hajj.
3- Sau khi mặt trời lặn, hãy từ tốn rời Arafah để đi đến Muzdalifah. Khi tới Muzdalifah thì chúng ta hãy dâng lễ nguyện Salah Al-Maghrib và Al-'Isha theo hình thức Jam'u Ta'khi-ﷺ (tức dâng lễ nguyện Al-Maghrib vào giờ của Al-Isha). Chúng ta nghỉ qua đêm tại Muzdalifah này đến khi lễ nguyện Salah Al-Fajr xong. Lưu ý, người già yếu được phép không nghỉ qua đêm tại Muzdalifah.
4- Vào ngày mồng mười tức ngày đại lễ Eid, trước khi mặt trời mọc, rời Muzdalifah đến Mina. ở Mina chúng ta đi ném trụ Jamarat với các viên đá nhỏ như hạt sỏi, mỗi lần ném thì takbir. Việc ném đá này có thể thực hiện từ lúc sau khi mặt trời mọc cho đến khuya.
5- Cắt cổ con vật và làm thịt chúng tại Mina hoặc Makkah trong những ngày đại lễ Eid, hãy ăn thịt của chúng và đem phân phát cho những người nghèo. Nếu như không có khả năng giết tế thì hãy nhịn chay, ba ngày trong thời gian làm Hajj và bảy ngày sau khi trở về nhà. Nam, nữ đều giống nhau bắt buộc phải giết tế con vật hoặc nhịn chay. Đây là Hajj theo dạng Tamattu'.
6- Cạo đầu hoặc cắt ngắn tóc, nhưng cạo sẽ tốt hơn, sau đó hãy mặc quần áo bình thường trở lại và được phép làm tất cả những điều bị cấm trong tình trạng Ihra-m trừ việc sinh hoạt vợ chồng.
7- Trở lại Makkah, tawaf bảy vòng và Sa-i giữa hai đồi Safa và Marwa cũng bảy dòng (lượt đi một dòng và lượt trở lại là một dòng kế tiếp). Xong được phép sinh hoạt trở lại bình thường kể cả sinh hoạt vợ chồng. Việc Tawaf này có thể trì hoãn đến cuối của những ngày đại lễ Eid.
8- Đối với ai Tawaf, Sa-i xong thì trở lại Mina, bắt buộc ở lại đó cho đến hết những ngày đại lễ Eid, mỗi ngày phải ném ba trụ Jamarat, thời gian là từ lúc sau Zhuhr cho tới khuya, mỗi trụ ném bảy viên đá, mỗi lần ném phải takbir, phải chắc chắn các viên đá được ném vào trong hố, nếu chưa vào hố thì phải ném lại viên khác, và theo Sunnah nên đứng lại giơ hai tay lên Du-a mỗi khi ném xong trụ thứ nhất và trụ giữa.
Được phép ném trụ Jamarat thay cho phụ nữ, người bệnh, người già yếu; và cúng được phép trì hoãn việc ném trụ này vào ngày thứ hai, thứ ba (tức ngày 11, 12 Zhul-Hajj) trong trường hợp bất đắc dĩ.
9- Bắt buộc Tawaf chia tay, và sau khi đã Tawaf chia tay rồi thì phải rời Makkah ngay. Và bắt buộc phải chịu phạt Dam (giết một con cừu, dê) nếu như không Tawaf chia tay, hoặc không ném trụ, hoặc không ngủ lại ở Mina.
* * *
1- Hãy thành tâm trong việc hoàn thành Hajj vì Allah duy nhất với tâm niệm: Lạy Thượng Đế, con thực hiện Hajj này là vì Ngài chứ không vì tiếng tâm hay danh vọng.
2- Hãy đi cùng với những người ngoan đạo, đức hạnh và tử tế, nếu có thể thì hãy phụ giúp họ, và đừng gây phiền hà đến người hàng xóm.
3- Hãy coi chừng, đừng hút thuốc lá cũng như mua bán nó, bởi hút thuốc là là Haram (không được phép), gây hại đến sức khỏe, lãng phí tiền bạc, gây phiền hà đến người xung quanh, và đặc biệt đi ngược lại giáo luật của Allah.
4- Hãy dùng Siwak mỗi khi dâng lễ nguyện Salah, hãy lấy nó, nước Zamzam và chà là làm quà biếu cho người thân, bởi quả thật đã có các Hadith xác thực khuyến khích việc làm này.
5- Hãy cẩn thận việc đụng chạm và nhìn ngắm phụ nữ; hãy che hijab cho các phụ nữ của mình.
6- Đừng đi bước lên đầu, cổ của những người đang dâng lễ nguyện để tránh gây hại và phiền hà cho họ, hãy tìm đến chỗ nào gần nhất mà ngồi xuống.
7- Hãy cẩn thận, đừng đi ngang trước mặt những người đang dâng lễ nguyện Salah, bởi đó là việc làm của Shaytan.
8- Hãy từ tốn trong việc dâng lễ nguyện Salah, hãy dâng lễ ngay chỗ nào có vật chắn trước mặt như phía sau vách tường, phía sau lưng ai đó, .. Và người dâng lễ nguyện Salah theo sau một người thì chỉ cần đặt vật chắt trước mặt vị Imam của họ là được.
9- Hãy nhẹ nhàng với những người chung quanh trong lúc đi Tawaf, Sa-i, ném đá, hôn cục đá đen, bởi đó là cách cư xử đứng đắn và tử tế được yêu cầu.
10- Hãy coi chừng, đừng cầu nguyện những người đã khuất cùng với Allah. Đó là điều Shirk làm hỏng hết giá trị của Hajj và mọi việc làm hành đạo khác. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋلَئِنۡ أَشۡرَكۡتَ لَيَحۡبَطَنَّ عَمَلُكَ وَلَتَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَﮊ (سورة الزمر: 65)
{Nếu Ngươi (Muhammad) làm Shirk (gán ghép cùng với Allah một đối tác ngang hàng) thì việc làm của Ngươi sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn Ngươi sẽ trở thành một kẻ mất mát} (Chương 39 – Azzumar, câu 65).
* * *
1- Khi vào Masjid, hãy bước vào bằng chân phải trước đồng thời nói:
اللهمَّ صَلِّ عَلَى مُحَمَّدٍ، اللهمَّ اِفْتَحْ لِيْ أَبْوَابَ رَحْمَتِكَ
“Ollo-humma solli 'ala Muhammad, Ollo-hummaf tah li abwa-ba rohmatik"
“Lạy Thượng Đế, xin Ngài ban sự bằng an và phúc lành cho Muhammad, lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy mở những cánh cửa thương xót từ nơi Ngài cho bề tôi!".
2- Dâng lễ nguyện Salah hai Rak-at chào Masjid, chào Salam đến Thiên sứ Muhammad e bằng cách nói:
السَّلَامُ عَلَيْكَ يَارَسُوْلَ اللهِ السَّلَامُ عَلَيْكَ يَاأَبَا بَكْرٍ السَّلَامُ عَلَيْكَ يَا عُمَر!
Assalamu 'alayka ya Rasu-lollo-h, Assalamu 'alayka ya Aba Bakrin, Assalamu 'alayka ya Umar!
Thưa Rasul, xin chào Salam đến Người, chào an lành đến Abu Bakr, chào an lành đến Umar!
Sau đó, quay mặt về Qibah và cầu nguyện Allah.
3- Việc làm tốt nhất thể hiện tình yêu thương dành cho Thiên sứ của Allah e là thực hiện và thi hành theo đúng đường lối và mệnh lệnh của Người.
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋإِن كُنتُمۡ تُحِبُّونَ ٱللَّهَ فَٱتَّبِعُونِي يُحۡبِبۡكُمُ ٱللَّهُ ﮊ (سورة آل عمران: 31)
{Hãy bảo họ (Muhammad!): “Nếu các người thực sự yêu thương Allah thì hãy theo đường lối và mệnh lệnh của ta rồi Allah sẽ yêu thương các người"} (Chương 3 – Ali-'Imran, câu 31).
Nabi Muhammad e bảo:
« جُزُّوا الشَّوَارِبَ وَأَرْخُوا اللِّحَى خَالِفُوا الْمَجُوسَ » (رواه مسلم)
“Hãy tỉa râu mép và chừa râu cằm để làm khác với những người thờ lừa Maju-s" (Muslim).
4- Việc viếng thăm Masjid Nabi Muhammad e và chào Salam đến Người là việc làm được khuyến khích. Tuy nhiên, việc làm này không nằm trong các nghi thức của Hajj tức nếu không thực hiện nó thì Hajj vẫn được hoàn thành và có giá trị; và việc viếng thăm này không yêu cầu trong thời gian nhất định nào cả mà bất kỳ lúc nào có khả năng thì đều có thể thực hiện được.
5- Hãy tránh việc sờ, chạm vào các cánh cửa hoặc các thành tường hay những thứ gì khác của Masjid Nabi với quan niệm muốn được phúc lành, bởi đây là những việc làm Haram (bị nghiêm cấm).
6- Việc đi lùi về phía sau khi muốn rời khỏi Masjid là việc làm Bid'ah (đổi mới, cải biên không nằm trong giáo luật) bởi không có căn cứ giáo luật yêu cầu hay quy định như vậy.
7- Hãy Salawat cho Nabi Muhammad e thật nhiều khi có thể bởi lời di huấn của Người:
« مَنْ صَلَّى عَلَىَّ وَاحِدَةً صَلَّى اللهُ عَلَيْهِ عَشْرًا » (رواه مسلم)
“Ai Salawat cho ta một lần, Allah sẽ Salawat cho người đó mười lần" (Muslim).
8- Việc đi du hành đến Madinah thì nên định tâm thăm viếng Masjid Nabi e và chào Salam cho Người và những vị Sahabah của Người, bởi dâng lễ nguyện Salah tại Masjid của Người tốt hơn những Masjid khác một ngàn lễ nguyện.
* * *
Bản chất và nhân cách của Người e là bản chất đức hạnh của Qur'an, Người hài lòng những gì Nó hài lòng và sẽ không hài lòng những gì Nó không hài lòng. Người không thù hận hay tức giận cho bản thân mình mà chỉ khi nào có sự xúc phạm đến những điều cấm đoán của Allah khiến Ngài giận dữ và phẫn nộ.
Người e là người ăn nói với lời lẽ chân thật và đứng đắn nhất trong thiên hạ. Người luôn thực hiện lời hứa với những người ngoại đạo, luôn cư xử một cách nhẹ nhàng và khéo léo, luôn kính trọng mọi người trong quan hệ giao tế.
Người e là người rất kín đáo, tế nhị và hay mắc cỡ trong việc riêng tư. Người thường hay trầm ngâm và suy tư, Người chưa từng có bất kỳ một hành vi nào hay lời nói nào khiếm nhã hay sàm bậy, Người không bao giờ dùng điều xấu để trả đủa lại những điều xấu mà Người luôn rộng lượng khoan hồng và sẵn lòng bỏ qua, ai có nhu cầu nhờ cậy Người giúp đỡ thì Người không bao giờ từ chối nếu có khả năng, Người không bao giờ thô lỗ hay cộc cằn, Người không bào giờ cắt ngang cuộc nói chuyện của người khác trừ phi đó là cuộc nói chuyện không đúng thì Người ngăn cản hoặc đứng dậy bỏ đi, Người không nói dối, không bực tức và cũng không thề thốt trong lời ăn tiếng nói.
Người e thường hay giữ gìn quan hệ láng giềng và luôn hiếu khách. Hầu hết thời gian của Người đều dành để phụng sự Allah, Người không bao giờ lãng phí thời gian vào bất kỳ việc gì ngoại trừ nó thực sự cần thiết. Người yêu thích sự lạc quan và ghét những gì bi quan, và khi có điều khiến Người phải lựa chọn một trong hai thì Người thường chọn điều đơn giản nhất miễn sao không mang tội, Người rất thích cứu giúp những người hoạn nạn túng thiếu và chống đỡ, ủng hộ những người bị đàn áp cũng như bị đối xử bất công.
Người e rất quý mến các vị bằng hữu của Người, Người thường hay bàn bạc, trao đổi ý kiến với họ và thường xuyên lui tới thăm viếng họ: Nếu có ai bệnh Người liền đến thăm hỏi, ai vắng mặt Người đi đến để mời gọi, có ai qua đời Người đến cầu nguyện cho họ, Người thông cảm và bỏ qua cho những người lầm lỡ, người quyền thế và người hèn yếu đối với Người đều như nhau trong trách nhiệm và quyền lợi. Và khi nói chuyện Người thường dùng ngôn từ phổ thông, phong cách gần gủi và dễ hiểu.
Và Người e cũng hay nói đùa nhưng Người chỉ nói những gì là sự thật và chân lý (Cầu xin Allah ban sự bằng an và phúc lành đến với Người!!!).
Nabi Muhammad e là người có lòng nhân từ nhất trong thiên hạ và cũng là người luôn quý mến các bằng hữu của mình hơn ai hết. Người luôn nới rộng cho họ mỗi khi chỗ ngồi không đủ, Người luôn là người chào Salam trước mỗi khi gặp ai đó, và mỗi khi bắt tay với một ai thì Người thường không buông tay trước cho tới khi người đó buông tay mới thôi.
Người e là người khiêm tốn và nhún nhường nhất trong thiên hạ, mỗi khi đến với một nhóm người đang họp mặt thì Người chỉ ngồi ngay phần cuối của điểm tập hợp và Người ra lệnh phải làm như thế, Người không hề đề cao địa vị của mình hơn người khác, Người luôn xem trọng những người chủ trì buổi họp, và khi có ai đó đến ngồi cùng Người thì Người không thản nhiên đứng dậy bỏ đi cho tới khi người đó đứng dậy trước ngoại trừ trường hợp Người có chuyện vội phải đi thì Người nhã nhặn xin phép.
Người e không thích người khác đứng dậy để tỏ thái độ kính cẩn khi gặp Người đến([8]). Ông Anas bin Malik nói:
« لَمْ يَكُنْ شَخْصٌ أَحَبَّ إِلَيْهِمْ مِنْ رَسُولِ اللهِ -صلى الله عليه وسلم- وَكَانُوا إِذَا رَأَوْهُ لَمْ يَقُومُوا لِمَا يَعْلَمُونَ مِنْ كَرَاهِيَتِهِ لِذَلِكَ » (حديث صحيح رواه أحمد و الترمذي)
“Không có ai là người được chúng tôi yêu quý nhất hơn Thiên sứ của Allah, vậy mà khi chúng tôi gặp Người thì không ai đứng dậy cả bởi lẽ tất cả chúng tôi đều biết rằng Người không thích việc làm đó." (Hadith xác thực do Ahmad và Tirmizhi ghi lại).
Người e không hề có một hành vi khiến người khác không thích, người thường đi thăm hỏi người bệnh, thương xót cho người túng thiếu khó khăn, Người thường ngồi cùng với họ và tham gia mai táng cho họ, Người không khinh miệt, xem thường người nghèo và cũng không co ro hay rụt rè trước vị vua quyền thế nào cả, Người luôn xem trọng ân huệ và phúc lộc được Allah ban cho, có nhiều hadith nói rằng: Người không bao giờ chê bai đồ ăn, nếu ưa thích thì Người ăn nó còn không thì Người không ăn, Người ăn và uống bằng tay phải, trước khi ăn hay uống Người luôn nhân danh Allah (Bissmillah) và khi xong thì Người nói “Alhamdulilla" tức tạ ơn Allah.
Người e thích những gì tốt lành thơm tho và ghét những gì ngược lại như Ngài không thích tỏi, hành và những gì có mùi khó chịu.
Người đi thực hiện Hajj và thường nói:
« اللهمَّ هَذه حَجَّةٌ لاَ رِيَاءَ فِيْهَا وَلَا سُمْعَة » (حديث صحيح رواه المقدسي)
“Lạy Thượng Đế, bề tôi thực hiện Hajj là một lòng vì Ngài chứ không vì được tiếng tâm hay danh vọng" (Hadith xác thực do Almaqasi ghi nhận).
Người e không bao giờ phân biệt chỗ ngồi khi cùng với các vị bằng hữu của Người trong bất cứ buổi họp mặt nào, đến nỗi có lần một người ở vùng quê đến tìm Người trong lúc Người đang ngồi cùng với các Sahabah thì đã hỏi: Ai trong các vị là Muhammad?
Và bộ trang phục mà Người e thích mặc nhất là áo dài phủ xuống đến nửa cẳng chân. Người không phung phí trong việc ăn uống cũng như ăn mặc, Người thường đội chiếc mũ tròn không có vành cùng với chiếc khăn xếp, trên ngón út tay phải của Người là một chiếc nhẫn bạc, và Người có bộ râu cằm dày.
* * *
Allah đã cử phái vị Thiên sứ của Ngài, Muhammad e đến cho nhân loại bởi lòng nhân từ của Ngài. Người được lệnh phải rao truyền tôn giáo cho toàn dân Ả rập nói riêng và toàn nhân loại nói chung để dẫn dắt họ đến với cuộc sống lành mạnh, tốt đẹp và hạnh phúc ở đời này lẫn Đời sau.
Việc đầu tiên mà Người truyền bá và kêu gọi đến với nó là Tawhid (độc tôn duy nhất) trong việc thờ phượng Allah. Và một trong những hình thức thờ phượng mà Người kêu gọi là việc cầu nguyện, khấn vái đến duy nhất một mình Allah. Bởi Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋقُلۡ إِنَّمَآ أَدۡعُواْ رَبِّي وَلَآ أُشۡرِكُ بِهِۦٓ أَحَدٗا ٢٠ ﮊ (سورة الجن: 20)
{Hãy nói đi (Muhammad!): “Ta chỉ cầu nguyện, khấn vái đến Thượng Đế của ta và ta không tổ hợp với Ngài bất kỳ một đối tác nào} (Chương 72 – Al-Jinn, câu 20).
Và quả thật, những người thờ đa thần đã kịch liệt phản đối lời kêu gọi của Người e bởi vì điều đó đã đi ngược lại với đức tin của họ lâu nay, rằng họ chỉ biết theo ông bà tổ tiên trước đây của họ là tôn thờ các thần linh của họ với những mô hình bằng đá. Họ đã phủ nhận Thiên sứ Muhammad e, họ vu khống Người là một tên phù thủy, thậm chí họ còn cho rằng Người là một kẻ điên loạn và tâm thần trong khi trước kia chính họ đã luôn gọi Người với danh hiệu Assa-diq Al-Amin có nghĩa là người tuyệt đối trung thực và ngay thẳng.
Quả thật, Thiên sứ e đã kiên nhẫn chịu đựng mọi sự chống đối và đàn áp của cộng đồng vì muốn thi hành mệnh lệnh của Thượng Đế của Người:
ﮋفَٱصۡبِرۡ لِحُكۡمِ رَبِّكَ وَلَا تُطِعۡ مِنۡهُمۡ ءَاثِمًا أَوۡ كَفُورٗا ٢٤ ﮊ (سورة الإنسان: 24)
{Hãy kiên nhẫn chịu đựng với Mệnh lệnh Thượng Đế của Ngươi và chớ nghe theo những tên tội lỗi hay những kẻ vô đức tin nào của bọn chúng} (Chương 76 – Al-Insan, câu 24).
Người e đã truyền bá chân lý Tawhid tại Makkah trong mười ba năm. Trong suốt thời gian đó, Người và những ai đi theo Người đã phải chịu đựng nhiều sự thống khổ do cộng đồng đàn áp. Sau đó, Người cùng với những tín đồ của Người rời quê hương Makkah dời cư đến Madinah để xây dựng một xã hội Islam mới, một xã hội công bằng, yêu thương và không phân chia giai cấp. Và quả thật, Allah đã ủng hộ cho Người với những điều thần diệu, và một trong số các điều thần diệu đó là Kinh Qur'an hướng dẫn mọi người đến với Tawhid, kiến thức, đấu tranh, tiến bộ và chuẩn mực đạo đức tôt đẹp, ...
Người e đã cho viết thông điệp mời gọi các vị vua trên trái đất này quy thuận Islam với nội dung ngắn gọn:
“Quy thuận Islam thì được an toàn rồi sẽ được Allah ban cho ân phước hai lần ..
ﮋيَٰٓأَهۡلَ ٱلۡكِتَٰبِ تَعَالَوۡاْ إِلَىٰ كَلِمَةٖ سَوَآءِۢ بَيۡنَنَا وَبَيۡنَكُمۡ أَلَّا نَعۡبُدَ إِلَّا ٱللَّهَ وَلَا نُشۡرِكَ بِهِۦ شَيۡٔٗا وَلَا يَتَّخِذَ بَعۡضُنَا بَعۡضًا أَرۡبَابٗا مِّن دُونِ ٱللَّهِۚ ﮊ (سورة آل عمران: 64)
{Này hỡi người dân kinh sách! Hãy cùng đến với một lời phán giống nhau giữa chúng tôi và quí vị rằng chúng ta không thờ phượng ai khác ngoài Allah, không Shirk với Ngài bất kỳ một điều gì, và không ai trong chúng ta sẽ thờ phượng các vị chủ tể nào khác ngoài Allah} (Chương 3 – Ali-'Imran, câu 64)".
Thiên sứ e đã chiến đấu với những người thờ đa thần và những người Do thái và đã giành thắng lợi. Người đã lãnh đạo chinh chiến khoảng hai mươi trận và cử mười đoàn quân dưới sự lãnh đạo của các vị Sahabah (bằng hữu) để đi chiến đấu và kêu gọi quy thuận Islam, giải phóng dân tộc khỏi sự bất công và tình trạng nô dịch, và Người e thường dạy họ bắt đầu bằng Tawhid.
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋقُلۡ إِن كُنتُمۡ تُحِبُّونَ ٱللَّهَ فَٱتَّبِعُونِي يُحۡبِبۡكُمُ ٱللَّهُ وَيَغۡفِرۡ لَكُمۡ ذُنُوبَكُمۡۚ وَٱللَّهُ غَفُورٞ رَّحِيمٞ ٣١ ﮊ (سورة آل عمران : 31)
{Hãy bảo họ (Muhammad!): “Nếu các người yêu thương Allah thì hãy tuân thủ mệnh lệnh của ta rồi Allah sẽ yêu thương các người và tha thứ tội lỗi cho các người. Bởi Allah là Đấng khoan dung và nhân từ} (Chương 3 – Ali-'Imran, câu 31).
Nabi Muhammad e nói:
« لاَ يُؤْمِنُ أَحَدُكُمْ حَتَّى أَكُونَ أَحَبَّ إِلَيْهِ مِنْ وَالِدِهِ وَوَلَدِهِ وَالنَّاسِ أَجْمَعِينَ » (رواه البخاري ومسلم)
“Không ai trong các người có đức tin hoàn hảo cho đến khi nào ta trở thành người yêu thương đối với các người, hơn cả cha, con của các người và tất cả mọi người trong thiên hạ" (Albukhari, Muslim).
Quả thật, Thiên sứ Muhammad là một người hội đủ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, Người dũng cảm, gan dạ nhưng rất nhân hậu và hiền từ. Ai nhìn thấy cơ thể lực lưỡng và cường tráng của Người phải nể sợ và ai đã từng quen và tiếp xúc với Người ắt sẽ yêu thích Người. Quả thật, Người đã truyền bá thông điệp của Allah, khuyên dạy cộng đồng, thống nhất khẩu hiệu; Người đã mở cửa trái tim đến với Tawhid cho các vị Sahabah của Người giống như Người đã cùng họ chiến đấu mở rộng lãnh thổ, đưa mọi người từ nơi ngụ muội của sự thờ phượng các bề tôi đến với chân lý thờ phượng Thượng Đế của các bề tôi.
Và quả thật, Người đã để lại cho chúng ta tôn giáo này thật đầy đủ và trọn vẹn, không cần đến sự cải biên, đổi mới hay chỉnh sửa hoặc thêm bớt.
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋٱلۡيَوۡمَ أَكۡمَلۡتُ لَكُمۡ دِينَكُمۡ وَأَتۡمَمۡتُ عَلَيۡكُمۡ نِعۡمَتِي وَرَضِيتُ لَكُمُ ٱلۡإِسۡلَٰمَ دِينٗاۚ ﮊ (سورة المائدة: 3)
{Ngày hôm nay TA (Allah) đã hoàn chỉnh cho các ngươi tôn giáo của các ngươi; ta cũng đã hoàn tất ân huệ của TA cho các ngươi và TA đã hài lòng lấy Islam làm tôn giáo cho các ngươi} (Chương 5 – Al-Ma'idah, câu 3).
Nabi Muhammad e nói:
« إِنَّمَا بُعِثْتُ لأُتَمِّمَ صَالِحَ الأَخْلاَقِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Quả thật, ta được cử đến để hoàn thiện phẩm chất đạo đức tốt đẹp" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
Đây là phẩm chất đạo đức tốt đẹp của Thiên sứ e, chúng ta hãy cố hết sức bám chặt lấy nó để trở thành những người được yêu thương thực sự. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋلَّقَدۡ كَانَ لَكُمۡ فِي رَسُولِ ٱللَّهِ أُسۡوَةٌ حَسَنَةٞ ﮊ (سورة الأحزاب: 21)
{Quả thật, nơi Thiên sứ của Allah có được một tấm gương tốt đẹp cho các ngươi noi theo} (Chương 33 – Al-'Ahzab, câu 21).
Chúng ta nên biết rằng tình yêu thương chân thật dành cho Allah và Thiên sứ của Ngài đòi hỏi phải được thể hiện qua những việc làm theo đúng kinh sách của Allah, theo các Hadith xác thực của Thiên sứ của Ngài, luôn lấy hai thứ này làm nền tảng cho mọi điều luật, không thực thi hay áp dụng theo lời nói của một ai khác. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ لَا تُقَدِّمُواْ بَيۡنَ يَدَيِ ٱللَّهِ وَرَسُولِهِۦۖ وَٱتَّقُواْ ٱللَّهَۚ إِنَّ ٱللَّهَ سَمِيعٌ عَلِيمٞ ١ ﮊ (سورة الحجرات: 1)
{Hỡi những người có đức tin! Chớ đừng qua mặt mà đi trước Allah và Thiên sứ của Ngài (về mọi vụ việc). Hãy kính sợ Allah, quả thật, Allah là Đấng nghe thấy và am tường mọi việc} (Chương 49 – Al-Hujurat, câu 1).
Lạy Thượng Đế, cầu xin Ngài ban bổng lộc cho chúng con, hãy phù hộ cho chúng con biết yêu thương, vâng lời Thiên sứ e!!!
* * *
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ قُوٓاْ أَنفُسَكُمۡ وَأَهۡلِيكُمۡ نَارٗا ﮊ (سورة التحريم: 6)
{Hỡi những người có đức tin! Hãy giữ gìn và trông coi bản thân và gia đình của các ngươi tránh khỏi lửa của Hỏa ngục!} (Chương 66 – Attahri-m, câu 6).
Cha mẹ, thầy cô là những người sẽ phải chịu trách nhiệm trước Allah về việc dạy dỗ các thế hệ con em của họ. Nếu việc dạy dỗ tốt đẹp thì họ và thế hệ con em của họ sẽ được hạnh phúc ở đời này và Đời sau, ngược lại, nếu họ lơ là việc dạy dỗ và giáo dục chúng thì đó là điều bất hạnh, họ đã treo lên cổ của chúng những tội lỗi, bởi điều này nên Nabi Muhammad e có lời di huấn:
« كُلُّكُمْ رَاعٍ ، وَكُلُّكُمْ مَسْئُولٌ عَنْ رَعِيَّتِهِ » (متفق عليه)
“Mỗi người các ngươi đều phải có trách nhiệm trông coi, dạy dỗ và khuyên bảo, mỗi người các ngươi phải chịu trách nhiệm đó với người thân của mình" (Albukhari, Muslim).
Xin báo tin vui cho những ai là những người luôn dạy dỗ và khuyên bảo mọi người bằng lời di huấn của Thiên sứ của Allah e:
« فَوَاللهِ لأَنْ يَهْدِىَ اللهُ بِكَ رَجُلاً خَيْرٌ لَكَ مِنْ أَنْ يَكُونَ لَكَ حُمْرُ النَّعَمِ » (رواه البخاري ومسلم)
“Thề bởi Allah, chỉ cần Allah hướng dẫn một người nào đó bởi ngươi thì điều đó tốt cho ngươi hơn cả việc ngươi sở hữu được một con lạc đà màu đỏ" (con lạc đà mảu đỏ là con lạc đà quí giá nhất đối với người ở vùng sa mạc thời đó). (Albukhari, Muslim)
Và xin báo tin vui cho những ai làm cha mẹ với lời di huấn của Nabi Muhammad e sau:
« إِذَا مَاتَ الإِنْسَانُ انْقَطَعَ عَنْهُ عَمَلُهُ إِلاَّ مِنْ ثَلاَثَةٍ إِلاَّ مِنْ صَدَقَةٍ جَارِيَةٍ أَوْ عِلْمٍ يُنْتَفَعُ بِهِ أَوْ وَلَدٍ صَالِحٍ يَدْعُو لَهُ » (رواه مسلم)
“Khi một người đã chết thì tất cả mọi việc làm của y sẽ chấm dứt (với cõi trần) trừ ba điều: Sadaqah Jariyah([9]), kiến thức hữu ích cho đạo hay đời và người con ngoan đạo cầu nguyện cho y" (Muslim).
Tuy nhiên, mỗi chúng ta phải cải thiện bản thân mình cho tốt trước tiên. Hãy thực hiện những điều thiện tốt và từ bỏ đi những điều không tốt đẹp trước con cái bởi cách giáo dục tốt nhất đó là sự biểu hiện hành vị và cách cư xử cũng như cách sống của cha mẹ trước con cái.
1- Dạy trẻ con nói và hiểu ý nghĩa câu Shahadah:
لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ، مُحَمَّدٌ رَسُولُ اللهِ
La ilaha illolloh, Muhammadar rosu- lulloh.
Không Đấng Thờ phượng đích thực nào khác ngoài Allah, Muhammad là vị Thiên sứ của Allah.
2- Hãy gieo vào trong trái tim của trẻ thơ biết yêu thương Allah và có đức tin Iman nơi Ngài rằng Ngài là Đấng Tạo hóa chúng ta, Đấng ban bổng lộc, Đấng ban phúc lành, chỉ mình Ngài duy nhất, không có đối tác cùng Ngài.
3- Hãy tạo cho trẻ con có lòng yêu thích Thiên Đàng bằng cách kể cho chúng nghe những gì tốt đẹp ở đó. Hãy giải thích cho chúng biết rằng ai dâng lễ nguyện Salah, nhịn chay, vâng lời, hiếu thảo với cha mẹ và luôn làm những gì mà Allah hài lòng thì sẽ được Ngài cho ở nơi Thiên Đàng; hãy cảnh báo chúng về sự trừng phạt nơi Hỏa ngục rằng ai bỏ bê việc dâng lễ nguyện Salah, không biết vâng lời và bất hiếu với cha mẹ, gian lận, nói dối,... sẽ làm Allah phẫn nộ rồi Ngài sẽ trừng phạt.
4- Dạy con cái phải luôn cầu xin Allah thương yêu và phù hộ, chỉ được cầu xin và khấn vái đến Ngài như Nabi e đã nói với người con chú bác của Người:
« إِذَا سَأَلْتَ فَاسْأَلِ اللهَ وَإِذَا اسْتَعَنْتَ فَاسْتَعِنْ بِاللهِ» (حديث حسن صحيح رواه الترمذي)
“Khi nào cậu muốn cầu xin thì cầu xin Allah và khi nào muốn xin sự phù hộ thì cầu xin sự phù hộ nơi Allah" (Hadith tốt, xác thực do Tirmizhi ghi lại).
1- Phải dạy bảo con cái, trai hay gái, dâng lễ nguyện Salah ngay từ lúc còn nhỏ để tập cho chúng quen dần với nghĩa vụ và bổn phận. Nabi Muhammad e có lời di huấn:
« مُرُوا صِبْيَانَكُمْ بِالصَّلاَةِ إِذَا بَلَغُوا سَبْعاً وَاضْرِبُوهُمْ عَلَيْهَا إِذَا بَلَغُوا عَشْراً وَفَرِّقُوا بَيْنَهُمْ فِى الْمَضَاجِعِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Các người hãy kêu bảo con cái các người dâng lễ nguyện Salah khi chúng đã được bảy tuổi và hãy đánh đòn chúng vì việc đó khi chúng lên mười và lúc bấy giờ hãy tách chúng ngủ riêng". (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
Nên dạy chúng bằng cách lấy nước Wudu và dâng lễ nguyện Salah trước mặt chúng, dắt chúng đi Majsid, tìm những quyển sách hướng dẫn cách thức dâng lễ nguyện Salah cho cả gia đình cùng tìm hiểu và học hỏi, và đây là điều được yêu cầu cho những người truyền dạy cũng như những bậc cha mẹ, bởi tất cả mọi sự sao lãng và thờ ơ đều sẽ được Allah hỏi tội.
2- Dạy con cái kinh Qur'an Karim, nên bắt đầu từ chương Fatihah và những chương ngắn, đồng thời dạy chúng học thuộc lòng bài Attahi-yat để chúng có thể dâng lễ nguyện Salah; hãy nên tìm cho chúng những người thầy chuyên môn về luật đọc xướng Qur'an cũng như cách học thuộc lòng và Hadith ..
3- Khuyến khích, động viên con cái tham dự các cuộc dâng lễ nguyện Jumu'ah và tập thể tại Masjid, cho chúng đứng ở dãy phía sau, hãy từ tốn và nhẹ nhàng khuyên dạy chúng nếu chúng làm chưa đúng, đừng quát mắng chúng để rồi chúng chán nản và bỏ Salah thì chúng ta sẽ phải mang tội sau này, bởi lẽ nếu chúng ta nhớ lại khi chúng ta còn nhỏ cũng nghịch ngợm và thơ dại như chúng thì chúng ta sẽ thông cảm cho chúng.
1- Hãy cánh báo con cái về sự phủ nhận đức tin, xúc phạm và xỉ nhục tôn giáo, hay có những lời nói xàm bậy không đứng đắn. Hãy nhẹ nhàng giải thích cho chúng hiểu rằng việc phủ nhận đức tin là Haram, là nguyên nhân của sự thất bại và thua thiệt ở Đời sau và chắc chắn sẽ bị đày trong Hỏa ngục. Riêng người lớn chúng ta phải luôn gìn giử lời ăn tiếng nói trước chúng vì chúng ta là tấm gương cho chúng bắt chước nói theo.
2- Hãy cảnh báo con cái phải tránh xa các loại trò chơ dưới hình thức cá cược và cờ bạc cho dù chỉ mang tính vui chơi giải trí, bởi lẽ những trò chơi đó sẽ dẫn lối đến với sự đánh bạc và cá cược thực sự, sẽ dễ gây ra chuyện xích mích và thu hằn, hơn nữa những trò chơi đó còn khiến lãng phí tiền bạc cũng như thời gian, tệ hại hơn sẽ làm con cái quên mất nghĩa vụ dâng lễ nguyện Salah.
3- Nghiêm cấm con cái đọc những tạp chí có những hình ảnh khêu gợi và nóng bỏng, hoặc những câu chuyện về trinh thám hay tình dục; nghiêm cấm chúng xem các phim ảnh có những hình ảnh và nội dung gợi dục như thế, bởi tất cả những thứ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến bản chất và đạo đức của chúng trong tương lai.
4- Cảnh báo con cái về tác hại của việc hút thuốc lá bằng cách giải thích cho chúng hiểu về lời khuyên của bác sĩ rằng tất cả các giới bác sĩ đều cho rằng thuốc lá nguy hại đến sức khỏe, là nguyên nhân của bệnh ung thư; thuốc lá còn làm hư răng, hôi miệng. Nói chung, thuốc lá chỉ có hại chứ không có lợi. Do đó, hút thuốc lá, sản xuất cũng như mua bán nó đều Haram. Hãy khuyên con cái nên ăn nhiều hoa quả thay vì hút thuốc lá.
5- Hãy tập cho con cái trung thực trong ăn nói cũng như trong hành động bằng cách là người lớn chúng ta không nói dối chúng cho dù chỉ là đùa giỡn. Một khi chúng ta đã hứa thì phải thực hiện đúng theo lời hứa. Có một Hadith xác thực với lời di huấn của Thiên sứ e:
« مَنْ قَالَ لِصَبِىٍّ تَعَالَ هاَكَ ثُمَّ لَمْ يُعْطِهِ فَهِىَ كَذْبَةٌ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Người nào nói với em bé rằng hãy đến đây cho cái này rồi y không đưa cho thì việc làm đó là dối trá" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
6- Chúng ta không nên nuôi nấng con cái chúng ta bằng những đồng tiền Haram như tiền hối lộ, tiền cho vay lấy lãi, tiền ăn cắp, hoặc tiền gian lận bởi đó sẽ là nguyên nhân làm chúng bất hạnh, dễ có khuynh hướng xấu đến chúng.
7- Không được giận dữ cầu nguyện, khấn vái những điều xấu cho con cái hoặc nguyền rủa chúng bởi lời cầu xin và khấn vái của cha mẹ dành cho con cái đều được đáp lại, và cũng có thể lời cầu nguyện điều xấu và nguyền rủa sẽ khiến con cái thêm lầm lạc. Tốt nhất nên nói với con: Cầu xin Allah sẽ cải thiện và hướng dẫn con!
8- Hãy cảnh báo con cái tránh xa những điều Shirk với Allah như cầu nguyện, khấn vái ai khác ngoài Allah từ những người chết, cầu xin những người chết phù hộ độ trì trong khi những người chết đó chẳng đem lại điều ích cũng chẳng gây hại được cho ai. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلَا تَدۡعُ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَا لَا يَنفَعُكَ وَلَا يَضُرُّكَۖ فَإِن فَعَلۡتَ فَإِنَّكَ إِذٗا مِّنَ ٱلظَّٰلِمِينَ ١٠٦ ﮊ (سورة اليونس: 106)
{Và chớ đừng cầu nguyện, khấn vái ngoài Allah những ai (vật) không thể mang lợi cũng chẳng thể gây hại được Ngươi. Mà nếu Ngươi làm thế thì quả thật Ngươi sẽ là một kẻ sai phạm} (Chương 10 – Yunus, câu 106).
1- Hãy khuyến khích và tập cho con gái ăn mặc kín đáo từ lúc còn nhỏ để chúng duy trì được thói quen đến lớn, đừng nên cho chúng mặc những quần áo ngắn, hở han hay những quần áo giống nam giới hoặc theo phong cách của người ngoại đạo. Đây sẽ là nguyên nhân khiêu khích và gợi dục cho những thanh niên. Chúng ta có bổn phận bảo chúng đội khăn che đầu khi chúng được bảy tuổi và bảo chúng che mặt khi chúng đã trưởng thành, hãy cho chúng mặc những bộ áo dài màu đen che toàn thân để giữ lấy cơ thể ngọc ngà của chúng. Bởi lẽ, Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّبِيُّ قُل لِّأَزۡوَٰجِكَ وَبَنَاتِكَ وَنِسَآءِ ٱلۡمُؤۡمِنِينَ يُدۡنِينَ عَلَيۡهِنَّ مِن جَلَٰبِيبِهِنَّۚ ذَٰلِكَ أَدۡنَىٰٓ أَن يُعۡرَفۡنَ فَلَا يُؤۡذَيۡنَۗ ﮊ (سورة الأحزاب: 59)
{Hỡi Nabi (Muhammad!) hãy bảo các bà vợ của Ngươi, các đứa con gái của Ngươi và các bà vợ của những người có đức tin dùng áo choàng phủ kín cơ thể của họ. Như thế sẽ dễ nhận biết họ và họ sẽ không bị xúc phạm} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 59).
Allah, Đấng Tối Cao đã nghiêm cấm những phụ nữ có đức tin chưng diện và phô bày gương mặt, Ngài phán:
ﮋوَلَا تَبَرَّجۡنَ تَبَرُّجَ ٱلۡجَٰهِلِيَّةِ ٱلۡأُولَىٰۖ ﮊ (سورة الأحزاب: 33)
{Và chớ phô trương vẻ đẹp theo lối chưng diện của các phụ nữ vào thời kỳ ngu muội (trước Islam)} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 33).
2- Khuyên dạy các con trai phải ăn mặc quần áo riêng biệt theo giới tính của mình, nam ra nam, không nên bắt chước ăn mặc những quần áo bó sát người, để dài tóc, móng tay, cạo hết râu cằm, bởi có một Hadith xác thực rằng:
« لَعَنَ النَّبِىُّ - صلى الله عليه وسلم - الْمُتَشَبِّهِينَ مِنَ الرِّجَالِ بِالنِّسَاءِ ، وَالْمُتَشَبِّهَاتِ مِنَ النِّسَاءِ بِالرِّجَالِ ،وَ لَعَنَ الْمُخَنَّثِينَ مِنَ الرِّجَالِ، وَالْمُتَرَجِّلاَتِ مِنَ النِّسَاءِ » (رواه البخاري)
“Nabi e nguyền rủa những người đàn ông làm giống đàn bà, những người đàn bà lại làm giống đàn ông; và Người cũng nguyền rủa những người đàn ông thích giả đàn bà và những người đàn bà thích giả đàn ông" (Albukhari).
« وَمَنْ تَشَبَّهَ بِقَوْمٍ فَهُوَ مِنْهُمْ » (حديث صحيح رواه أبو داود)
“Và ai thích làm giống một nhóm người nào đó thì y thuộc nhóm người đó" (Hadith xác thưc do Abu Dawood ghi lại).
1- Tập cho trẻ con thói quen dùng tay phải để đưa nhận, ăn uống, viết, tiếp đãi khách; hãy dạy chúng nói Bissmillah (nhân danh Allah) trước khi bắt đầu cho mọi công việc, đặc biệt là trước khi ăn và uống; hãy dạy chúng nói Alhamdulillah (Tạ ơn Allah) sau khi ăn uống xong; hãy rèn luyện những thói quen này như một nguyên tắc.
2- Rèn cho trẻ con biết sạch sẽ, cắt móng tay cho chúng, cho chúng rửa tay trước và sau bữa ăn, dạy chúng cách thức làm vệ sinh thân thể sau khi tiểu tiện cũng như đại tiện để dâng lễ Salah, khỏi làm Najis (dính những thứ bẩn) quần áo.
3- Hãy nhẹ nhàng khuyên bảo chúng, chớ đừng quát mắng chúng mỗi khi chúng làm sai. Nếu đã nhiều lần khuyên bảo chúng mà chúng vẫn bướng bỉnh và ương ngạnh không sửa đổi thì hãy thôi nói chuyện với chúng trong ba ngày, không hơn.
4- Dạy bảo chúng phải nên im lặng mỗi khi nghe tiếng Azan, dạy chúng nhắc lại theo sau lời Azan, rồi sau đó Salawat cho Nabi e và đọc du-a:
« اللَّهُمَّ رَبَّ هَذِهِ الدَّعْوَةِ التَّامَّةِ وَالصَّلاَةِ الْقَائِمَةِ آتِ مُحَمَّدًا الْوَسِيلَةَ وَالْفَضِيلَةَ وَابْعَثْهُ مَقَامًا مَحْمُودًا الَّذِى وَعَدْتَهُ » (رواه البخاري)
“Ollo-humma Rabba ha-zhihid da'watit ta-mmah wassola-til qo-imah a-ti Muhammadan alwasi-lah wal fadhi-lah wab'athhu maqo-man mahmu-dan allazhi wa 'adtah"
“Lạy Thượng Đế, Đấng Chủ Tể của lời kêu gọi hoàn hảo và cuộc lễ nguyện Salah trang nghiêm, xin Ngài ban cho Muhammad những ân phúc tốt đẹp và xin Ngài hãy cho Người một nơi ở vinh dự như Ngài đã hứa" (Albukhari).
5- Nếu có thể hãy sắp xếp cho các con trai của mình mỗi đứa một chiếc giường ngủ riêng biệt, còn không cho mỗi đứa một chiếc chăn đắp riêng. Tốt nhất hãy cho các con gái ở riêng một phòng, các con trai riêng một phòng. Như thế sẽ đảm bảo sức khỏe cho chúng và rèn cho chúng tác phong đúng đắn.
6- Rèn dạy cho con trẻ thói quen không xả rác bừa bãi ngoài đường đi để khỏi gây điều có hại cho bản thân.
7- Cảnh báo và răn đe con cái tránh quan hệ kết bạn với kẻ xấu và không cho chúng đứng lảng vảng ngoài đường, phải thường xuyên theo dõi và quán sát đến chúng.
8- Hãy chào Salam đến con cái dù trong nhà hay ngoài đường hoặc bất kỳ nơi nào với câu chào Salam:
السَّلَامُ عَلَيْكُمْ وَرَحْمَةُ اللهِ وَبَرَكَاتُهُ
Assala-mu'alaykum wa rohmatullo-hi wa baroka-tuh
Cầu xin bằng và phúc lành đến mọi người!
1- Phải sắp xếp một lớp học riêng của gia đình để các con học và tìm hiểu về tiểu sử cũng như sự nghiệp truyền bá Islam của Nabi Muhammad e cùng với tiểu sử và những câu chuyện về các vị Sahabah y để chúng biết được Nabi là một vị lãnh đạo dũng cảm, những vị Sahabah của Người như Abu Bakr, Umar, Uthman, Ali và Mu'awiyah là những người đã có công mở rộng lãnh thỗ của chúng ta, và họ là những nguồn động lực trong việc hướng dẫn chúng ta, họ đã giành chiến thắng bằng đức tin Iman của họ, bằng sự chiến đấu dũng cảm của họ và bằng sự thi hành theo Qur'an và Sunnah của Nabi e.
2- Giáo dục con cái tinh thần dũng cảm, biết khuyên nhủ, kêu gọi mọi người làm việc nghĩa và chân lý và ngăn cản mọi người làm việc xấu và nghịch đạo. Răn dạy chúng không được làm điều trái lệnh Allah, tuy nhiên, chúng ta không được làm chúng sợ hãi bởi những lời nói dối, sự tưởng tượng và bong tối.
3- Hãy gieo vào trong lòng con cái của chúng ta sự không yêu thích những người Do thái và những người bất công hay làm điều gian ác, tội lỗi và xấu xa. Và những thanh niên của chúng ta sẽ giải phóng được Palestine và Masjid Maqdis khi chúng được trở về với nguồn kiến thức Islam và tinh thần đấu tránh bất khuất vì chính nghĩa của Allah và chúng sẽ giành chiến thắng dưới sự cho phép và phù hộ của Allah.
4- Hãy tìm mua những quyển sách truyện mang tính giáo dục về Islam như tập truyện về các vị Nabi cũng như các vị ngoan đạo được nói trong Qur'an, tập truyện về tiểu sử và sự nghiệp truyền bá Islam của Thiến sứ Muhammad e, tập truyện về các vị anh hùng Sahabah và những con người gan dạ, dũng cảm trong thế giới tín đồ Muslim.
* * *
Nếu chúng ta muốn được thành đạt ở trần gian này và ở cõi Đời sau thì chúng ta phải thực hành theo những lời huấn thị sau:
1- Hãy nói năng lễ phép với cha mẹ, không được có thái độ vô lễ, bất kính đối với họ dù chỉ là một tiếng thở dài tỏ vẻ không hài lòng; tuyệt đối không được lớn tiếng quát mắng họ mà hãy nói với họ bằng lời lẽ nhẹ nhàng đầy tôn kính và trìu mến.
2- Hãy luôn vâng lời cha mẹ trong tất cả mọi sự việc ngoại trừ những việc trái đạo Islam bởi lẽ chúng ta không được vâng lời một tạo vật mà phải nghịch lại với Đấng Tạo Hóa.
3- Hãy ân cần và dịu dàng trong cách cư xử với cha mẹ không được châu mày nhăn nhó tỏ vẻ khó chịu với cha mẹ, không được nhìn cha mẹ với cặp mắt giận dữ va phẫn nộ.
4- Hãy luôn gìn giữ và bảo vệ danh dự, tiếng tâm và tài sản của cha mẹ, chúng ta không được phép lấy đi một điều gì của họ mà ho chưa cho phép.
5- Hãy làm vui lòng cha mẹ cho dù đó không phải là sự sai bảo của họ như chăm sóc chu đáo, mua sắm quà biếu tặng họ và hãy cố gắng, chăm chỉ trong con đường học vấn.
6- Hãy thảo luận và tham khảo ý kiến của cha mẹ trong tất mọi công việc và hãy xin lỗi họ nếu như trường hợp phải làm khác đi ý kiến của họ.
7- Hãy nhanh nhẹn đáp lời cha mẹ mỗi khi họ gọi có việc cần, hãy vội vã đến bên họ với nét mặt luôn mỉm cười trên môi, hãy luôn nói: Dạ thưa mẹ hoặc dạ thưa cha.
8- Hãy kính trọng những người bà con, bạn bè của cha mẹ lúc cha mẹ vẫn còn sống hay đã chết.
9- Không được tranh luận ngang tàng với cha mẹ và không được cho là họ sai mà hãy từ tốn phân tích cho họ hiểu vấn đề đúng là chỗ nào.
10- Không được chống đối cha mẹ, nói năng lớn tiếng với họ, hãy im lặng lắng nghe khi họ nói chuyện và dạy bảo; hãy lễ độ với họ và đừng để ai làm phiền trong việc yêu thương và kính trọng cha mẹ.
11- Hãy đứng dậy tiến đến cha mẹ mỗi khi họ vào gặp chúng ta, và hãy hôn lên đầu của họ.
12- Hãy giúp mẹ làm những công việc nhà và đừng trễ nải trong việc phụ giúp hoàn thành công việc của cha.
13- Không được đi xa khi cha mẹ không cho phép cho dù công việc có quan trọng, nhưng nếu bất dắc dĩ phải đi vì công việc khẩn thì hãy xin lỗi họ, tuy nhiên hãy thường xuyên thư thừ và liên lạc với họ.
14- Đừng vào làm phiền cha mẹ khi chưa xin phép họ đặc biệt vào giờ ngủ của họ hay lúc họ đang cần nghỉ ngơi.
15- Nếu như chúng ta lỡ nghiện thuốc lá thì đừng hút thuốc trước mặt cha mẹ.
16- Đừng dùng bữa trước cha mẹ, hãy tiếp đãi chu đáo thức ăn, đồ uống cho họ.
17- Đừng dối gạt cha mẹ, đừng làm đau lòng họ với những việc làm trái ý của họ.
18- Đừng xem trọng vợ, con cái hơn cha mẹ, hãy xin được sự hài lòng của họ trước mọi sự việc bởi Allah sẽ hài lòng khi nào cha mẹ đã hài lòng và Ngài sẽ giận dữ khi nào con cái làm cho mẹ giận dữ.
19- Đừng ngồi ở chỗ cao hơn chỗ mà cha mẹ đang ngồi và cũng đừng ngồi duỗi chân thẳng về phía chỗ cha mẹ đang ngồi vì đó là sự xem thường cha mẹ.
20- Đừng tỏ thái độ láo xược hay “ta đây" trước mặt cha mẹ bởi kiến thức sâu rộng hay có chức vị cao ngoài xã hội ngay cả có làm chức vụ cao to như thế nào đi chăng nữa. Hãy thận trọng trong lời ăn tiếng nói, đừng bất kính vô lễ với họ dù chỉ một lời.
21- Đừng keo kiệt trong việc nuôi dưỡng và chu cấp cho cha mẹ để họ phải than phiền. Đó là điều đáng hổ thẹn cho bản thân, rồi sau này chúng ta sẽ thấy con cái của chúng ta đối xử lại chúng như thế, bởi đó là quả báo mà Allah trả lại cho những ai đối xử không tử tế với Đấng sinh thành.
22- Hãy thường xuyên tới lui thăm viếng cha mẹ nếu họ không ở cùng trong nhà, hãy đến thăm hỏi họ và mua quà tặng làm họ vui mừng, hãy biết ơn nghĩa mà họ đã vất vả khó nhọc nuôi dạy chúng ta nên người, hãy nhìn lại cách chúng ta yêu thương con cái, tảo tần trong mọi nhọc nhằn để nuôi chúng mà nhớ đến công ơn của cha mẹ.
23- Người đáng để cho chúng ta yêu quý trong thiên hạ là mẹ của chúng ta, sau đó là cha của chúng ta. Hãy biết rằng Thiên Đàng nằm ở bên dưới chân các bà mẹ.
24- Hãy thận trọng đừng bất hiếu với cha mẹ và nếu ai làm cho cha mẹ của mình phẫn nộ và đau khổ thì người đó sẽ là kẻ bất hạnh ở đời này và ở Đời sau, bởi lẽ sau này con cái của chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như chung ta đã đối xử với cha mẹ của chúng ta.
25- Khi nào chúng ta muốn yêu cầu một điều gì đó từ cha mẹ thì hãy nhỏ nhẹ với họ và hãy cảm ơn họ khi họ đáp lại yêu cầu của chúng ta nhưng hãy thông cảm cho họ nếu họ ngăn cản hay không đáp lại yêu cầu, và cũng đừng đòi hỏi và yêu cầu cha mẹ quá nhiều để khỏi làm phiền lòng đến họ.
26- Nếu chúng ta đã có thể tự mình đi tìm bổng lộc của Allah thì hãy làm mà phụ giúp cha mẹ của mình.
27- Quả thật, đối với cha mẹ chúng ta có nghĩa vụ và bổn phận, và đối với vợ con thì chúng ta cũng có nghĩa vụ và bổn phận. Do đó, hãy thực hiện bổn phận và nghĩa vụ của mình cho những người được hưởng.
28- Khi có sự xung đột và mâu thuẫn giữa cha và vợ thì hãy khôn khéo trong việc giải hòa, hãy làm cho vợ hiểu rằng mình luôn ở về phía nàng, còn nếu phần đúng về phía nàng thì đương nhiên phải rán làm cho nàng hài lòng.
29- Và nếu chúng ta có gì trái ý với cha mẹ trong việc hôn nhân và ly dị thì chúng ta hãy nên chiếu theo giáo luật, điều đó sẽ tốt hơn cho chúng ta.
30- Lời nguyện cầu điều tốt và điều xấu của cha mẹ luôn được Allah chấp nhận, do đó, hãy coi chừng lời cầu nguyện điều xấu lên chúng ta.
31- Hãy lịch sự và nhã nhặn với mọi người, người nào thường buông lời chửi bới thiên hạ thì sẽ bị thiên hạ chửi rủa lại. Nabi Muhammad e nói:
« مِنَ الْكَبَائِرِ شَتْمُ الرَّجُلِ وَالِدَيْهِ ». قَالُوا يَا رَسُولَ اللهِ هَلْ يَشْتِمُ الرَّجُلُ وَالِدَيْهِ قَالَ « نَعَمْ يَسُبُّ أَبَا الرَّجُلِ فَيَسُبُّ أَبَاهُ وَيَسُبُّ أُمَّهُ فَيَسُبُّ أُمَّهُ » (متفق عليه)
“Một trong những đại tội là việc một người chửi rủa cha mẹ của mình". Các vị Sahabah hỏi: Thưa Thiên sứ của Allah! Chẳng lẻ có người dám chửi rủa cha mẹ của mình sao? Người nói: “Y chửi rủa cha của một người nào đó rồi người đó chửi cha của y, y chửi rủa mẹ của người đó rồi người đó chửi rủa mẹ của y". (Albukhari, Muslim).
32- Hãy viến thăm cha mẹ khi họ còn sống và sau khi chết, hãy bố thí giùm họ và hãy thường xuyên cầu nguyện thật nhiều cho họ với lời nguyện cầu:
رَبِّ اغْفِرْ لِي وَلِوَالِدَيَّ ، رَبِّ ارْحَمْهُمَا كَمَا رَبَّيَانِي صَغِيرًا
Rabbigh firli wa wa-lidayya, Rabbir hamhuma kama rabbay-ni soghi-ro.
Lạy Thương Đế của con! Xin Ngài hãy tha thứ tội lỗi cho cha mẹ của con, lạy Thượng Đế của con! Xin Ngài hãy yêu thương cha mẹ của con giống như họ đã chăm sóc và yêu thương con lúc còn thơ dại.
* * *
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋإِن تَجۡتَنِبُواْ كَبَآئِرَ مَا تُنۡهَوۡنَ عَنۡهُ نُكَفِّرۡ عَنكُمۡ سَئَِّاتِكُمۡ وَنُدۡخِلۡكُم مُّدۡخَلٗا كَرِيمٗا ٣١ ﮊ (سورة النساء: 31)
{Nếu các ngươi tránh được những đại tội mà các ngươi bị nghiêm cấm thì TA sẽ xóa đi khỏi các ngươi những tội lỗi nhỏ và sẽ thu nhận các ngươi vào Thiên Đàng bằng một lối vào thật vinh dự} (Chương 4 – Annisa', câu 31).
2- Nabi Muhammad e nói:
« اتَّقِ الْمَحَارِمَ تَكُنْ أَعْبَدَ النَّاسِ » (حديث حسن رواه أحمد)
“Hãy tránh những điều cấm, ngươi sẽ là người đạo hạnh nhất trong thiên hạ" (Hadith tốt do Ahmad ghi lại).
3- Điều đại tội: Là tất cả những điều trái đạo có khung hình phạt trên thế gian hoặc được Allah cảnh báo về sự trừng phạt ở Đời sau.
4- Số lượng những đại tội: Ibnu Abbas k nói: Chúng lên đến khoảng bảy trăm và trong số đó có những tội lỗi gần nhất với Assab' (Bảy đại trọng tội nguy hại cho một bề tôi mà Nabi e đã cảnh báo) và đó là những tội lỗi không phải là lớn nhưng phải cầu xin được tha thứ và cũng không phải là nhỏ nếu như cứ ngoan cố.
1- Những đại tội trong đức tin và tâm niệm: Shirk với Allah như thờ phượng, du-a (cầu nguyện, khấn vái) đến những ai (vật) khác ngoài Allah, bởi lẽ Nabi Muhammad e nói:
« الدُّعَاءُ هُوَ الْعِبَادَةُ » (حديث حسن صحيح رواه الترمذي)
“Du-a là một hình thức thờ phượng" (Hadith tốt, xác thực do Tirmizhi ghi lại).
Và truyền dạy kiến thức tôn giáo chỉ vì mục đích trần gian, che giấu kiến thức (về đạo), bội tín, tin lời thầy bói, thầy bùa hoặc những nhà chiêm tinh, giết súc vật, nguyện thề đến những ai (vật) khác ngoài Allah, vẽ hình ảnh con người và động vật, sản xuất các tượng thờ cũng như các tượng đài kỷ niệm nhớ ơn những người đã khuất, mặc áo (quần) dài xuống phủ cả mắt cá chân với dáng vẻ kêu ngạo, thề thốt với những gì khác ngoài Allah (như thề bời danh dự, Nabi, Ka'bah,...), không phủ nhận những kẻ vô đức tin, dối gạt Allah và Thiên sứ của Ngài (như bịa đặt ra Hadith), khẳng định sẽ an toàn khỏi hình phạt của Allah, than khóc, gào thét cho người chết, không có đức tin vào số mạng, đeo bùa ngải (như đeo xâu chuỗi, móng ngựa hoặc vuốt của hổ, mèo lên người trẻ con, hoặc treo trên ô tô hay treo trong nhà...)
2- Những đại tội về tính mạng và trí óc: Giết người, thêu đốt người và động vật, đàn áp những người yếu hèn, dùng vũ lực với vợ, đánh đập thô bạo học trò, ngược đãi người làm công hay người giúp việc, tàn nhẫn với súc vật, học hỏi và dùng ma thuật, nói xấu phỉ báng người khác, mách lẻo gây hận thù cho nhau, dùng hay sản xuất, mua bán những chất gây say, nghiện (như rượu, cần sa, áp phiện, và mọi chất kích thích, ...), ăn, uống thuốc độc để tự dẫn, ăn thịt heo, thịt động vật chết không phải đang trong hoàn cảnh cùng đường, dùng những chất gây hại đến sức khỏe (như hút thuốc lá, cần sa,...), tự giết chết bản thân cho dù theo cách giết dần dần như hút thuốc lá, tranh luận với những điều không chân lý, đối xử bất công và gieo rắc hận thù cho mọi người xung quanh, không thực hiện điều lẽ phải, giễu cợt trên nỗi đau của người khác, có ý nghĩ xấu về người đồng đạo Muslim, phủ nhận đức tin của người đồng đạo Muslim một cách vô căn cứ, chửi rủa anh em đồng đạo Muslim hoặc chửi rủa một ai đó trong số các vị Sahabah của Nabi e, kêu ngạo tư cao tự đại, dò thám chuyện riêng tư của người khác, vu khống và nói sai sự thật trước toà nhằm gây hại kẻ khác, thường dối trá trong lời nói.
3- Những đại tội liên quan đến tài sản và tiền bạc: Ăn tiền và của cải của trẻ mồ côi, đồng tiền kiếm được từ việc cá cược, cờ bạc, xổ số, trộm cắp, cướp giật, hối lộ, gian lận trong việc cân đo, thề thốt trên sự giả dối hầu lấy tiền của người khác, lừa đảo và gian lận trong mua bán kinh doanh, không thực hiện theo lời hứa hay hợp động, làm chứng giả, đầu cơ, che giấu chứng cớ, không hài lòng theo những gì Allah ban phát, và đeo vàng đối với nam giới.
4- Những đại tội trong hành đạo: Bỏ bê lễ nguyện Salah hoặc lơ là, trễ nải dâng lễ không đúng giờ qui định mà không có lý do chính đáng, không đóng Zakat (thuế an sinh) cho người nghèo, không nhịn chay tháng Ramadan không có lý do, không thực hiện chuyến hành hương Hajj khi đã có đủ điều kiện và khả năng, trốn tránh việc đấu tranh vì chính nghĩa của Allah, không đấu tranh bằng sức lực, tài sản, hoặc lời nói đối với ai có bổn phận và nghĩa vụ phải làm điều đó, bỏ bê dâng lễ nguyện Jumu'ah hoặc lễ nguyện tập thể tại Masjid một cách không lý do, không kêu gọi mọi người làm việc thiện tốt cũng không ngăn cản điều xấu, điều trái đạo đối với người có khả năng làm điều đó, không làm vệ sinh khi tiểu tiện (bằng giấy, lá cây, đất, đá hay nước), và không thực hành theo kiến thức hiểu biết (tôn giáo).
5- Những đại tội liên quân đến gia đình và huyết thống: Zina (quan hệ nam nữ ngoài hôn nhân), quan hệ đồng tính, vu khống cho những phụ nữ có đức tin là không giữ gìn trinh tiết (xúc phạm danh giá của họ), phụ nữ chưng diện và phô trương đầu tóc, nam làm giống nữ và nữ làm giống nam, bất hiếu với cha mẹ, quay mặt với người thân không có nguyên nhân từ giáo luật, vợ không đáp lại nhu cầu của chồng không có lý chính đáng (như kinh nguyệt, trong thời kỳ hậu sản, bệnh hoạn, ..), làm nghề Muhallal: là người sẽ kết hôn với người phụ nữ đã bị chồng ly dị sau ba lần mục đích chỉ để người chồng cũ ở lại, người phụ nữ đi đường xa mà không có người Mahram (người không được quyền cưới cô ta làm vợ), hài lòng cho người thân làm điều Zina, gây phiền nhiễu đến người chòm xóm, nhổ lông mặt (cả nam và nữ).
6- Sự sám hối cho những đại tội: Hỡi người anh em động đạo! Nếu như chúng ta lỡ phạm vào những đại tội thì chúng ta hãy ngừng và từ bỏ ngay lập tức mà quay về sám hối cầu xin Allah tha thứ. Hãy luôn ghi nhớ lời phán dạy của Allah, Đấng Nhân từ:
ﮋإِنَّمَا ٱلتَّوۡبَةُ عَلَى ٱللَّهِ لِلَّذِينَ يَعۡمَلُونَ ٱلسُّوٓءَ بِجَهَٰلَةٖ ثُمَّ يَتُوبُونَ مِن قَرِيبٖ فَأُوْلَٰٓئِكَ يَتُوبُ ٱللَّهُ عَلَيۡهِمۡۗ وَكَانَ ٱللَّهُ عَلِيمًا حَكِيمٗا ١٧ﮊ (سورة النساء : 17)
{Quả thật, Allah chỉ chấp nhận việc hối cải của những ai vì lầm lỡ mà phạm tội lỗi rồi nhanh chóng sám hối sau đó. Allah chỉ sẽ tha thứ cho những người như thế và Allah là Đấng hiểu biết và sáng suốt } (chương 4 – Annisa', câu 17).
* * *
Bốn vị Imam lớn của Islam (cầu xin Allah thương yêu và hài lòng họ) là những người mang lại cho thế hệ chúng ta điều tốt đẹp. Mỗi vị Imam trong số họ đều đã nỗ lực trong việc nghiên cứu về kiến thức đạo dựa trên các Hadith([10]). Và quả thật, có rất nhiều điều, sự việc đã không được họ đồng thuận quan điểm với nhau bởi có những Hadith được truyền tải đến người này nhưng người kia thì chưa được tiếp thu. Nguyên nhân cho điều này là do tất cả các Hadith không phải được ghi chép lại trực tiếp từ Nabi e mà thật ra chúng được các vị Sahabah thuộc lòng rồi truyền tải lại cho những người sau này, và những người học thuộc lòng các Hadith lại sinh sống rải rác nhiều nơi khác nhau, có người sinh sống tại vùng Hija-z, có người ở vùng Sha-m, Iraq, Ai cập, và những nơi khác thuộc các lãnh thỗ Islam. Hơn nữa, vào thời đại đó vấn đề truyền thông lại rất khó khăn và lạc hậu. Bởi lẽ đó, ta thấy Imam Shafi-'i (cầu xin Allah yêu thương và hài lòng về ông) đã bỏ đi đường lối cũ ở Iraq sau khi ông đến Ai cập và đã tiếp thu được những Hadith mới.
Do đó, chúng ta nhận thấy rằng, theo quan điểm của Imam Shafi-'i thì việc Wudu sẽ không được hoàn chỉnh nếu như chạm phải phụ nữ, còn Imam Abu Hani-fah thì không cho là như vậy. Trong trường hợp này, bắt buộc chúng ta phải trở về với Hadith của Nabi Muhammad e qua lời phán của Allah, Đấng Tối Cao:
ﮋفَإِن تَنَٰزَعۡتُمۡ فِي شَيۡءٖ فَرُدُّوهُ إِلَى ٱللَّهِ وَٱلرَّسُولِ إِن كُنتُمۡ تُؤۡمِنُونَ بِٱللَّهِ وَٱلۡيَوۡمِ ٱلۡأٓخِرِۚ ذَٰلِكَ خَيۡرٞ وَأَحۡسَنُ تَأۡوِيلًا ﮊ (سورة النساء: 59)
{Nhưng nếu các ngươi bất đồng ý kiến về một điều gì, hãy quay về với vị Sứ giả (Muhammad) và Allah nếu các ngươi tin tưởng nơi Allah và Đời Sau. Đấy là cách giải thích tốt nhất và đúng đắn nhất} (Chương 4 – Annisa', câu 59).
Và bởi vì điều chân lý không thể nào là nhiều quan điểm trái ngược, cho nên ở hai quan điểm bất đồng được nêu trên: Wudu không hoàn chỉnh nếu chạm phụ nữ và chạm phụ nữ không ảnh hưởng gì đến Wudu, tốt nhất chúng ta phải nên trở về với Thiên sứ e bởi Người là người giải thích Qur'an tốt nhất, và về điều này thì trong Hadith Albukhari có ghi rằng Nabi đã từng chạm phải tay 'A-ishah trong lúc Người dâng lễ nguyện Salah và bà A-ishah đã nắm lấy chân Người. Và nếu Imam Shafi-'i đã nghe thấy Hadith này hoặc Hadith này xác thực đối với ông thì chắc chắn quan điểm của ông sẽ theo Hadith bởi ông đã nói: “Khi nào Hadith xác thực thì đó là đường lối của ông".
Và thật ra, chúng ta chỉ được lệnh tuân thủ theo Qur'an, kinh sách được ban xuống từ nơi Allah, Đấng Tối Cao, cùng với sự giải thích ý nghĩa và nội dung của Nó qua các Hadith xác thực từ Nabi Muhammad e, như Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋٱتَّبِعُواْ مَآ أُنزِلَ إِلَيۡكُم مِّن رَّبِّكُمۡ وَلَا تَتَّبِعُواْ مِن دُونِهِۦٓ أَوۡلِيَآءَۗ قَلِيلٗا مَّا تَذَكَّرُونَ ٣ﮊ (سورة الأعراف: 3)
{Hãy tuân theo những gì đã được ban xuống cho các ngươi từ Thượng Đế của các ngươi và chớ nghe theo bất kỳ người bảo hộ nào khác ngoài Ngài. Nhưng có lẽ các ngươi sẽ không mấy gì ghi nhớ!} (Chương 7 – Al-'Araf, câu 3).
Do đó, không một người Muslim nào được phép không tuân theo một Hadith xác thực mà y đã nghe thấy bởi đó là sự trái nghịch trong đường lối của y. Bởi lẽ đó, tất cả các vị học giả Islam đều đồng thuận rằng phải đón nhận và làm theo những Hadith xác thực và bỏ đi những lời nói cũng như những quan điểm trái nghịch với chúng.
Còn kết quả của việc đi theo các trường phái một cách mù quáng về vấn đề “Wudu sẽ không hoàn chỉnh vì chạm phải phụ nữ" là do có một số người ngoại đạo đã có ý đồ không tốt cho Islam. Thật tình, đã có một người thuộc dân Makkah đã kể tôi nghe rằng khi ở Đức, anh ta đã nhìn thấy một quyển tạp chí ghi một dòng chữ to với nhan đề “Islam xem phụ nữ là thứ dơ bẩn như sự bẩn thỉu của loài chó". Họ bảo như thế vì họ nghe rằng những người Muslim thường rửa tay của họ mỗi khi chạm phải người phụ nữ, nên họ cứ tưởng rằng phụ nữ là dơ bẩn. Và nếu họ thật sự biết rằng Nabi Muhammad e đã từng hôn một số người vợ của Người rồi sau đó dâng lễ nguyện Salah mà không hề lấy Wudu lại thì chắc chắn họ sẽ bảo những lời nói trên thực sự là một điều phỉ báng cho Islam. Và cũng bởi vấn đề noi theo trường phái một cách cuồng tín như vậy nên những người ngoại đạo luôn luôn tạo một vách ngăn cách giữa họ với Islam khiến họ không muốn gia nhập Islam bởi vì họ nghĩ rằng Islam là một tôn giáo coi phụ nữ là thứ dơ bẩn như loài chó.
Và một nhà học giả lớn được mệnh danh lão bối Islam, ông Ibnu Taymi-yah (cầu xin Allah thương yêu ông) đã có viết một cuốn sách có tựa đề “Tẩy oan cho những Imam lỗi lạc". Trong cuốn sách, có lời rất hay cho các vị Imam lỗi lạc và chính trực rằng ai sai sẽ được một công đức còn ai đúng sẽ được hai công đức, đó là sau khi đã nỗ lực nghiên cứu. Cầu xin Allah yêu thương những vị Imam lỗi lạc và chính trực và xin Ngài hãy ban cho họ mọi điều tốt lành.
Đây là một số lời nói của các vị Imam lớn trong Islam (Cầu xin Allah yêu thương họ). Chúng sẽ tẩy oan cho họ và sẽ chứng minh điều chân lý cho những ai đi theo đường lối của họ:
Imam Abu Hani-fah ﷺ và những ai đi theo hệ giáo luật thực hành của ông, nói:
1- Là điều Haram cho người nào không biết rõ dẫn chứng của tôi mà lại ngang nhiên lấy lời nói của tôi làm nguồn tư vấn giáo luật, bởi lẽ tôi là người phàm nên điều tôi nói ngày hôm nay cũng có thể sẽ được tôi rút lại vào ngày mai.
2- Khi tôi nói một lời nói mà nó đi ngược lại với kinh sách của Allah và những gì mà Thiên sứ e đã thông điệp thì hãy bỏ đi câu nói của tôi.
3- Học giả Ibnu 'Abidi-n nói trong cuốc sách của ông: Nếu có một Hadith xác thực mà nó nghịch lại với trường phái thì hãy làm theo Hadith, và đó là trường phái của tôi, không phải lúc nào người theo trường phái của Imam Abu Hani-fah cũng luôn thi hành theo ông bởi ông thực sử đã nói: “Nếu Hadith xác thực thì đó là trường phái của tôi".
Imam Ma-Lik ﷺ và Imam của cư dân Madi-nah Munauwarah nói:
1- Thật ra tôi chỉ là một người phàm có sai có đúng, cho nên, phải xem xét ý kiến và quan điểm của tôi, nếu như tất cả đều tương đồng với Kinh sách (Qur'an) và Sunnah (Hadith) thì hãy nhận lấy nó, còn nếu như tất cả đều không tương đồng với Kinh sách và Sunnah thì hãy bỏ đi.
2- Bất kỳ người nào sau Nabi e đều phải nhận lấy lời nói của Người và bỏ đi những gì Người không nói.
Imam Shafi-'i ﷺ - người thuộc dòng dõi của Nabi e nói:
1- Ai cũng phải tuân thủ theo Sunnah của Thiên sứ Muhammad e. Do đó, cho dù tôi có nói như thế nào hoặc dù tôi thuộc dòng dõi của Người nhưng những gì Người nói khác với lời nói của tôi thì những gì Người nói là quan điểm của tôi.
2- Tất cả những người Muslim đều đồng thuận với nhau rằng ai đã được giải thích rõ ràng về Sunnah của Thiên sứ Allah thì không được phép bỏ nó để lấy câu nói của một ai khác.
3- Khi nào các người tìm thấy trong sách của tôi có gì trái ngược với Sunnah của Thiên sứ Allah e thì các người hãy nói theo lời nói của Thiên sứ e, và đó cũng là câu nói của tôi.
4- Nếu Hadith xác thực thì đó là trường phái của tôi.
5- Ông nói với Imam Ahmad bin Hambal: Các anh biết Hadith và những người dẫn truyền Hadith nhiều hơn tôi, cho nên, nếu như Hadith nào xác thực thì hãy nói lại cho tôi biết để tôi tiếp thu nó.
6- Tất cả mọi vấn đề, mọi sự việc đúng với thông điệp của Thiên sứ e được những người dẫn truyền xác nhận nhưng lại khác với những gì tôi nói thì dù đang còn sống hay đã chết tôi chắc chắn sẽ trở về với nó.
Imam Ahmad bin Hambal ﷺ – một vị Imam của những người theo Sunnah nói:
1- Đừng theo một cách mù quáng, theo tôi, hay Ma-lik, Shafi-'i, Al-auza-ri, Atthauri hoặc những ai khác, mà hãy theo những gì các người thấy nó thực sự là chân lý.
2- Người nào không thừa nhận một Hadith nào đó của Thiên sứ Allah e thì người đó đang ở trên bờ hủy diệt.
Có hai dạng Bid'ah ([11]): Bid'ah đời và Bid'ah đạo.
1- Bid'ah đời có hai loại:
- Bid'ah xấu: Như rạp chiếu phim, truyền hình, Video và những gì khác tương tự ảnh hưởng đến tiêu chuẩn đạo đức, gây hại cho xã hội, đặc biệt là những phim ảnh không lành mạnh.
- Bid'ah tốt: Như máy bay, ô tô, điện thoại và những gì khác có lợi cho xã hội và gây tiện lợi cho mọi sinh hoạt của cuộc sống.
2- Bid'ah đạo: Là những gì không có trong sứ mạng của Thiên sứ e, cũng như không có trong các hành động của những vị Sahabah sau Người, có nghĩa là sự đổi mới, cải biên và thêm bớt trong hành đạo và trong tôn giáo. Đây là dạng Bid'ah bị nghiêm cấm trong Islam và nó được coi là một điều lệch lạc:
1- Allah, Đấng Tối Cao đã chỉ trích những người thờ đa thần trong những việc làm Bid'ah của họ, Ngài phán:
ﮋأَمۡ لَهُمۡ شُرَكَٰٓؤُاْ شَرَعُواْ لَهُم مِّنَ ٱلدِّينِ مَا لَمۡ يَأۡذَنۢ بِهِ ٱللَّهُۚ ﮊ (سورة الشورى : 21)
{Phải chăng họ có những thần linh ngang hàng với Allah đã thiết lập cho họ một tôn giáo mà Allah đã không cho phép} (Chương 42 – Ash-Shura, câu 21).
2- Và Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ عَمِلَ عَمَلاً لَيْسَ عَلَيْهِ أَمْرُنَا فَهُوَ رَدٌّ » (رواه مسلم)
“Ai làm một việc làm nào đó mà nó không phải là mệnh lệnh của ta thì việc làm đó không được chấp nhận" (Muslim).
3- Nabi Muhammad e có lời di huấn:
«وَإِيَّاكُمْ وَمُحْدَثَاتِ الأُمُورِ فَإِنَّ كُلَّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ وَإِنَّ كُلَّ بِدْعَةٍ ضَلاَلَةٌ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Các người hãy coi chừng những điều đổi mới trong đạo bởi tất cả mọi điều đổi mới đều Bid'ah và mọi điều Bid'ah đều lệch lạc" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
4- Nabi Muhammad e nói:
«إِنَّ اللهَ حَجَبَ التَّوْبَةَ عَنْ كُلِّ صَاحِبِ بِدْعَةٍ حَتَّى يَدَعَهَا» (حديث صحيح رواه الطبراني وغيره)
“Quả thật, Allah sẽ ngăn chặn sự sám hối của tất cả những ai làm điều Bid'ah cho tới khi nào y từ bỏ làm điều Bid'ah" (Hadith xác thực do Attabra-ni và những người khác ghi lại).
5- Con trai của Umar bin Atkhattab k nói: Tất cả những điều Bid'ah đều lệch lạc cho dù thiên hạ có xem nó là điều tốt.
6- Imam Ma-lik ﷺ nói: Ai làm Bid'ah trong Islam một điều gì đó mà y cho rằng nó tốt đẹp thì quả thật y đã khẳng định Muhammad đã không hoàn thành sứ mạng của Người, bởi Allah, Đấng Tối Cao đã phán:
ﮋٱلۡيَوۡمَ أَكۡمَلۡتُ لَكُمۡ دِينَكُمۡ وَأَتۡمَمۡتُ عَلَيۡكُمۡ نِعۡمَتِي وَرَضِيتُ لَكُمُ ٱلۡإِسۡلَٰمَ دِينٗاۚ ﮊ (سورة المائدة: 3)
{Ngày hôm nay TA (Allah) đã hoàn chỉnh cho các ngươi tôn giáo của các ngươi; ta cũng đã hoàn tất ân huệ của TA cho các ngươi và TA đã hài lòng lấy Islam làm tôn giáo cho các ngươi} (Chương 5 – Al-Ma'idah, câu 3).
7- Imam Shafi-'i ﷺ nói: Người nào tự do hành động trong tôn giáo thì coi như người đó đã tạo ra một giáo luật riêng cho mình; và nếu việc tự do hành động được cho phép trong đạo thì những người dùng đầu óc để lý luận sẽ làm chứ không phải những người của đức tin Iman, và lúc đó trong đạo sẽ có nhiều giáo luật khác nhau và mỗi một người sẽ có một giáo luật mới và riêng biệt cho bản thân mình.
8- Học giả 'Adhif nói: Điều Bid'ah sẽ không xuất hiện trừ phi điều Sunnah giống như vậy bị quên mất.
9- Học giả Alhasan Albasri nói: Đừng cùng hội cùng thuyền với những người làm điều Bid'ah bởi họ sẽ làm bệnh hoạn trái tim của mình.
10- Học giả Huzhaifah nói: Tất cả những việc làm hành đạo mà những vị Sahabah của Muhammad không làm thì chớ đừng làm.
1- Tổ chức lễ sinh nhật cho Nabi Muhammad e được gọi là Mawlu-d, tổ chức lễ cho đêm thăng thiên và những ngày có sự kiện nào đó.
2- Nhảy múa, reo hò và đánh trống trong lúc Zikir, thay đổi đại danh của Allah thành như Ah, huwa, hiya,...)
3- Làm đám tang, mời những Sheik đến đọc Qur'an sau khi chết và những việc làm khác tương tự.
* * *
Đây là hai việc làm căn bản trong việc xây dựng và cải thiện cho cộng đồng xã hội. Và hai việc làm này là những đặc điểm cơ bản của những tín đồ Islam. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋكُنتُمۡ خَيۡرَ أُمَّةٍ أُخۡرِجَتۡ لِلنَّاسِ تَأۡمُرُونَ بِٱلۡمَعۡرُوفِ وَتَنۡهَوۡنَ عَنِ ٱلۡمُنكَرِ وَتُؤۡمِنُونَ بِٱللَّهِۗ ﮊ (سورة آل عمران : 110)
{Các ngươi (những người có đức tin) là một cộng đồng được gầy dựng để làm gương cho nhân loại: Các ngươi hãy kêu gọi thiên hạ làm việc tốt và ngăn cản họ làm việc xấu và các ngươi hãy tin tưởng nơi Allah} (Chương 3 – Ali – 'Imran, câu 110).
Và khi nào chúng ta bỏ dở và sao lãng việc kêu gọi mọi người làm điều tốt cũng như ngăn cản mọi người làm điều xấu thì coi như tiểu chuẩn đạo đức của chúng ta bị đánh mất và lúc bấy giờ tư cách cư xử của chúng ta trở nên xấu đi.
Và không được giao cho một người cố định nào đó lo việc kêu gọi mọi người làm việc tốt, ngăn cản mọi người làm việc xấu, bởi lẽ, đây là bổn phận và nghĩa vụ cho tất cả mỗi tín đồ Muslim, nam hay nữ, người học cao hiểu rộng hay người thất học. Tất cả mỗi người phải có bổn phận có trách nhiệm đó theo từng khả năng của mỗi người. Nabi Muhammad e có nói:
« مَنْ رَأَى مِنْكُمْ مُنْكَرًا فَلْيُغَيِّرْهُ بِيَدِهِ فَإِنْ لَمْ يَسْتَطِعْ فَبِلِسَانِهِ فَإِنْ لَمْ يَسْتَطِعْ فَبِقَلْبِهِ وَذَلِكَ أَضْعَفُ الإِيمَانِ » (رواه مسلم)
“Ai trong các người nhìn thấy điều xấu thì hãy ngăn cản nó bằng chính đôi tay của mình, nếu như không thể thì bằng chiếc lưỡi của mình, con nếu như không thể thì bằng trái tim của mình và đó là sự yếu kém nhất của đức tin" (Muslim).
1- Thuyết giảng ngày thứ sáu, hai ngày đại lễ Eid, người thuyết giảng nên giải thích những điều sai trái và khuyên răn làm điều thiện tốt.
2- Mở những buổi thuyết giảng, hoặc viết bài lên tạp chí, báo để phân tích và giải thích rõ những căn bệnh của xã hội và hướng dẫn phương pháp điều trị.
3- Viết sách, người viết nên trình bày làm rõ những gì y muốn nói cho mọi người hiểu về những suy nghĩ, những cách thức cải thiện con người.
4- Lời khuyên, trong một buổi họp mặt đông người thì một người nào đó đứng lên nói một vài lời khuyên, thí dụ như lời khuyên về tác hại của việc hút thuốc lá chẳng hạn...
5- Khuyên dạy và cảnh báo nhau về những điều nghịch đạo như khuyên người anh em của mình đừng nên đeo vàng hoặc cảnh báo y về việc bỏ bê lễ nguyện Salah.
6- Ghi những bức thông điệp ngắn, đây là cách truyền tải hữu dụng nhất bởi lẽ tất cả mọi người đều có thể đọc trên một vài trang về lễ nguyện Salah hoặc Jihad hoặc Zakah hoặc về những đại trọng tội trong Islam.
1- Người kêu gọi phải nên ân cần và nhẹ nhàng để mọi người yêu thích mà đón nhận. Allah, Đấng Tối Cao phán bảo Nabi Musa và Harun như sau:
ﮋٱذۡهَبَآ إِلَىٰ فِرۡعَوۡنَ إِنَّهُۥ طَغَىٰ ٤٣ فَقُولَا لَهُۥ قَوۡلٗا لَّيِّنٗا لَّعَلَّهُۥ يَتَذَكَّرُ أَوۡ يَخۡشَىٰ ٤٤ ﮊ (سورة طه: 43،44)
{Hai ngươi hãy đi gặp Fir'aun, quả thật hắn tàn ác và xấu xa quá mức. Tuy nhiên, hai ngươi hãy ăn nói từ tốn và nhã nhặn với hắn may ra hắn sẽ ghi nhớ lời cảnh báo và biết kính sợ (Allah)} (Chương 20 – Ta-ha, câu 43, 44).
Và khi nhìn thấy một người đang chửi rủa và nghịch đạo thì khuyên bảo y với lời nói nhỏ nhẹ, hãy bảo y cầu xin Allah che chở khỏi sự xúc giục của Shaytan, nguyên nhân cho hành vi chửi rủa, hãy bảo y rằng quả thật Allah là Đấng đã tạo hóa ra chúng ta và Ngài đã ban cho chúng rất nhiều ân huệ, cho nên, Ngài đáng được tạ ơn, còn việc nghịch đạo sẽ không mang lại điều lợi nào cả mà trái lại nó sẽ là nguyên nhân cho sự bất hạnh ở trần gian và bị trừng phạt ở Đời sau. Sau đó, hãy bảo y sám hối và cầu xin Allah tha thứ.
2- Người kêu gọi phải biết rõ điều Haram và Halal để y có thể mang lại điều hữu ích tránh gây ra những tai hại không tốt lành do sự ngu dốt của bản thân.
3- Người kêu gọi phải là người luôn thi hành đúng những gì y kêu gọi và khuyên răng mọi người thực hiện và y phải tránh xa những điều mà y ngăn cản mọi người. Như vậy mới là điều hữu ích và thiết thực, Allah, Đấng Tối Cao phán về những ai kêu gọi người khác làm nhưng bản thân lại không thực hiện như sau:
ﮋأَتَأۡمُرُونَ ٱلنَّاسَ بِٱلۡبِرِّ وَتَنسَوۡنَ أَنفُسَكُمۡ وَأَنتُمۡ تَتۡلُونَ ٱلۡكِتَٰبَۚ أَفَلَا تَعۡقِلُونَ ٤٤ ﮊ (سورة البقرة: 44)
{Phải chăng các ngươi kêu gọi mọi người sống và cư xử cho đạo đức nhưng bản thân các ngươi lại quên không làm điều đó trong khi các ngươi đọc và hiểu Kinh sách. Làm thế các ngươi không suy nghĩ hay sao?} (Chương 2 – Albaqarah, câu 44).
Và người kêu gọi lúc nào cũng phải nên cẩn trọng mà tránh xa những điều sai phạm đã xảy ra với những người đã lỡ làm.
4- Chúng ta phải thành tâm trong hành động, tuyên truyền kêu gọi những người làm điều trái đạo đến với sự Chỉ đạo của Allah, và đó là sự giải nhiệm của chúng ta trước Allah, Ngài phán:
ﮋوَإِذۡ قَالَتۡ أُمَّةٞ مِّنۡهُمۡ لِمَ تَعِظُونَ قَوۡمًا ٱللَّهُ مُهۡلِكُهُمۡ أَوۡ مُعَذِّبُهُمۡ عَذَابٗا شَدِيدٗاۖ قَالُواْ مَعۡذِرَةً إِلَىٰ رَبِّكُمۡ وَلَعَلَّهُمۡ يَتَّقُونَ ١٦٤ ﮊ (سورة الأعراف : 164)
{Và một tập thể của họ đã lên tiếng hỏi: “Ích lợi gì cho các người trong việc khuyên can một đám người mà Allah muốn hủy diệt hoặc sẽ bị Ngài trừng phạt bằng một sự trừng phạt khủng khiếp?" (Những người tuyên truyền và kêu gọi) đáp: “Để cho hoàn thành trách nhiệm và bổn phận của chúng tôi trước Thượng Đế của các người và biết đâu họ sẽ biết kính sợ (Allah)} (Chương 7 – Al-'Araf, câu 164).
- Người kêu gọi phải can đảm, không sợ tiếng chê trách trong hành động vì Allah và luôn biết kiên nhẫn và chịu đựng với những điều không hay xảy đến cho bản thân.
1- Một điều không đúng liên quan đến Masjid: Trang trí và sơn màu một cách quá mức cho Masjid, xây nhiều cột tháp cho Masjid, đặt những tấm bảng lớn có chữ viết phía trước mặt người dâng lễ nguyện Salah làm phân tâm họ và đặc biệt đối với những dòng chữ thơ văn trong đó có lời cầu xin những ai khác ngoài Allah, đi ngang qua trước mặt người đang dâng lễ nguyện Salah, bước qua đầu cổ của những người đang ngồi, lớn tiếng trong lúc tụng niệm, đọc Qur'an hoặc nói chuyện làm phiền nhiễu đến những người đang dâng lễ nguyện Salah bởi Nabi e có bảo rằng:
«لَا يَجْهَرْ بَعْضُكُمْ عَلَى بَعْضٍ فِيْ الْقُرْآنِ» (حديث صحيح رواه أحمد)
“Các người chớ đọc Qur'an người này lớn tiếng hơn người kia" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
Khạc nhổ và ho quá lớn tiếng gây ôn ào, một số người Imam đọc bài thuyết giảng với những Hadith bịa đặt và yếu kém nhưng lại không nói về các cung bậc xác thực của chúng, trong khi vẫn có rất nhiều Hadith xác thực đầy đủ cho bài thuyết giảng nhưng lại không dẫn chứng và nêu lên, cầu xin sự phù hộ và ân phúc những ai khác ngoài Allah trong lúc nghe lời Azan và lúc ngâm thơ mỗi dịp lễ, xuất hiện mùi thuốc lá của một số người Muslim, dâng lễ nguyện Salah trong bộ quần áo dơ bẩn với mùi hôi khó chịu, lớn tiếng và nhảy múa trong lúc Zikir, lớn tiếng trong mua bán, không đứng sát nhau vai kề vai, bàn chân sát bàn chân khi dâng lễ nguyện Salah tập thể.
2- Những điều sai quấy ở ngoài đường: Phụ nữ ăn mặc hở hang khi ra khỏi nhà hoặc nói, cười lớn tiếng; nam nữ nắm tay, nói chuyện với nhau một cách không hổ thẹn; buôn bán vé số và bán rượu trong các quán, trừng bày các hình ảnh nam nữ khiêu dâm làm hư hại tiêu chuẩn đạo đức, xả rác bừa bãi ngoài đường, một số nam thanh niên đứng chờ để trêu chọc phụ nữ trên đường và ngoài chợ.
3- Những điều không đúng liên quan đến chợ búa: Thề thốt với những ai (vật) khác ngoài Allah, gian lận, lừa đảo giữa người bán và người mua, căng lều giữa đường đi, chửi bới, nhục mạ, và kêu gọi bằng cách la hét.
4- Những điều không đúng trong nhà: Nghe nhạc, ca hát gợi dục, nam nữ trà trộn với nhau mà không có người Mahram cho dù người nam hay người nữ kia có là bà con của nhau đi chăng nữa như con chú bác hoặc cô di hoặc anh em của chồng hay vợ.., treo trên tường các tranh ảnh hoặc những biểu tượng của những thứ có linh hồn, kể cả treo những bức ảnh của chình mình hay của cha, phung phí trong ăn uống cũng như ăn mặc tiêu xài, hút thuốc lá gây hại sức khỏe và gây khó chịu cho người xung quanh, chơi trò chơi súc sắc, bất hiếu với cha mẹ, xem các tạp chí khiêu dâm và gợi dục, đeo bùa ngải cho trẻ con hoặc trên các cửa của ngôi nhà hoặc treo trên xe như treo các hạt cườm xanh, treo móng ngựa..., quan niệm những bùa ngải đó sẽ trừ điều dữ và mang lại điều lành, chỉ trích và phê bình các vị Sahabah của Nabi e, một số hành vi giễu cợt vô đức tin trong việc tuân lệnh Allah như lễ nguyện Salah, đội hijab, để râu cằm và những gì được Islam chỉ bảo.
Jihad ([12]) là bổn phận bắt buộc đối với mỗi tín đồ Muslim. Jihad có thể bằng tài sản như ủng hộ và đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh, có thể bằng sức người như tham gia chiến đấu, và cũng có thể bằng lưỡi và ngòi bút như kêu gọi, tuyên truyền Jihad cũng như bênh vực cho nó.
1- Nghĩa vụ bắt buộc đối với từng cá nhân: Đó là nghĩa vụ chống lại kẻ thù đang tấn công và xâm lược một số đất nước của người Muslim, như những người Do thái hiện nay đang chiếm đoạt Palestine. Do đó, những người Muslim có khả năng sẽ bị mang tội nếu như không đánh đuổi người Do thái ra khỏi đất nước.
2- Nghĩa vụ chung của tập thể: Chỉ cần có một người đứng ra đại diện cho tập thể thực hiện nghĩa vụ này thì tất cả tập thể sẽ không mang tội. Đó là Jihad trong việc truyền bá tôn giáo Islam đến những nơi khác để những nơi đó áp dụng luật của Islam. Hãy đấu tranh để giơ cao khẩu hiệu của Allah. Và đây là Jihad từ quá khứ cho đến ngày tận thế và nó ân phúc hơn Jihad ở dạng thứ nhất.
Và một khi người Muslim sao lãng việc Jihad mà chỉ biết quan tâm đến cuộc sống trần tục, chỉ biết quan tâm đến việc trồng trọt, kinh doanh thì họ sẽ trở nên thấp hèn. Quả thật, lời di huấn của Thiên sứ e đã chứng minh xác thực cho điều này khi Người nói:
«إِذَا تَبَايَعْتُمْ بِالْعِيْنَةِ ، وَأَخَذْتُمْ أَذْنَابَ الْبَقَرِ وَرَضِيْتُمْ بِالزَرْعِ وَتَرَكْتُمُ الْجِهَادَ فِى سَبِيلِ اللهِ ، سَلَّطَ اللهُ عَلَيْكُمْ ذِلاًّ، لَا يُنْزِعُهُ عَنْكُمْ حَتَّى تَرْجِعُوا إِلَى دِيْنِكُمْ» (حديث صحيح رواه أحمد)
“Khi các người đã đồng thuận mua bán bởi hình thức 'I-nah([13]) , các người chấp nhận theo sau đuôi của con bò và thỏa nguyện với việc trồng trọt mà sao lãng việc đấu tranh cho con đường chính nghĩa của Allah thì Allah sẽ hạ thấp các người xuống dưới quyền cai trị của kẻ thù và Ngài sẽ không giải thoát cho các người cho tới khi nào các người trở lại với tôn giáo của các người" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
3- Jihad với những nhà cầm quyền Muslim: Khuyên nhủ họ và giúp đỡ họ, bởi Nabi e có nói:
« الدِّينُ النَّصِيحَةُ » قُلْنَا لِمَنْ قَالَ « لِلهِ وَلِكِتَابِهِ وَلِرَسُولِهِ وَلأَئِمَّةِ الْمُسْلِمِينَ وَعَامَّتِهِمْ » (رواه مسلم)
“Đạo là sự khuyên răn". Chúng tôi (những người Sahabah) hỏi: Sự khuyên răn cho ai. Người nói: “Cho Allah, kinh sách của Ngài, Thiên sứ của Ngài, cho những vị Imam của những người Muslim và cho tất cả cộng đồng" (Muslim).
Nabi Muhammad e còn nói:
« أَفْضَلُ الْجِهَادِ كَلِمَةُ عَدْلٍ عِنْدَ سُلْطَانٍ جَائِرٍ » (حديث حسن رواه أبو داود والترمذي)
“Jihad tốt nhất là lời nói công bằng và chân lý với nhà cầm quyền không đúng" (Hadith tốt do Abu Dawood và Tirmizhi ghi lại).
Hãy trình bày và giải thích rõ cách chuộc lỗi cho những người cầm quyền bất công, những người cùng màu da với chúng ta, cùng ngôn ngữ với chúng ta, rằng người Muslim phải nên quay về sám hối với Thượng Đế của họ, họ phải luôn cải thiện đức tin và quan niệm của họ, và họ luôn biết trông chừng bản thân và người thân quyến của họ trên con đường Islam đúng đắn. Hãy xác nhận lời khuyên giải bằng lời phán của Allah, Đấng Tôi Cao:
ﮋإِنَّ ٱللَّهَ لَا يُغَيِّرُ مَا بِقَوۡمٍ حَتَّىٰ يُغَيِّرُواْ مَا بِأَنفُسِهِمۡۗ ﮊ (سورة الرعد: 11)
{Quả thật, Allah không thay đổi bất cứ điều gì của một nhóm người cho tới khi nào chính họ tự biết thay đổi bản thân họ} (Chương 13 – Ar-rad, câu 11).
Cũng với lẽ trên, một trong những người truyền giáo đương thời đã có lời ngụ ý như sau: “Hãy thiết lập một quốc gia Islam trong trái tim của các bạn thì nó sẽ gậy dựng cho các bạn một lãnh thổ thuộc chủ quyền của các bạn!".
Cùng với điều đó, chúng ta phải biết cải thiện nguyên tắc và lề lối để làm vững chắc nền móng và cấu trúc của nó. Nền móng và cấu trúc của đất nước chính là cộng đồng xã hội. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَعَدَ ٱللَّهُ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ مِنكُمۡ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ لَيَسۡتَخۡلِفَنَّهُمۡ فِي ٱلۡأَرۡضِ كَمَا ٱسۡتَخۡلَفَ ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِهِمۡ وَلَيُمَكِّنَنَّ لَهُمۡ دِينَهُمُ ٱلَّذِي ٱرۡتَضَىٰ لَهُمۡ وَلَيُبَدِّلَنَّهُم مِّنۢ بَعۡدِ خَوۡفِهِمۡ أَمۡنٗاۚ يَعۡبُدُونَنِي لَا يُشۡرِكُونَ بِي شَيۡٔٗاۚ وَمَن كَفَرَ بَعۡدَ ذَٰلِكَ فَأُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلۡفَٰسِقُونَ ٥٥ﮊ (سورة النور: 55)
{Allah đã hứa với những người có đức tin và làm việc thiện trong các ngươi rằng chắc chắn Ngài sẽ làm cho họ trở thành những người cầm quyền và cai quản trên trái đất giống như việc Ngài đã làm cho những người thời trước họ trở thành những người cầm quyền và cai quản; và chắc chắn Ngài sẽ thiết lập cho họ một tôn giáo vững chắc mà Ngài đã hài lòng; và chắc chắn Ngài sẽ đổi lại cho họ tình trạng an ninh sau cảnh phầp phòng lo sợ, với điều kiện là họ chỉ thờ phượng riêng một mình Ngài và không làm điều Shirk với Ngài bất kỳ một điều gì. Và sau đó, nếu ai phủ nhận đức tin thì họ sẽ là những kẻ phá rối và nghịch đạo} (Chương 24 – Annur, câu 55).([14])
4- Jihad chống lại những người ngoại đạo, chủ nghĩa vô thần và những kẻ xâm chiếm từ những người dân kinh sách: Hãy đấu tranh bằng tài sản, sức lực và tiếng nói bởi Nabi Muhammad e nói:
« جَاهِدُوا الْمُشْرِكِينَ بِأَمْوَالِكُمْ وَأَنْفُسِكُمْ وَأَلْسِنَتِكُمْ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Hãy đấu tranh với những người thờ đa thần bằng tài sản của các người, bản thân của các người và tiếng nói của các người" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
5- Jihad chống lại những người làm bậy và những người làm điều trái đạo: Hãy đấu tranh chống lại họ đôi tay, bằng tiếng nói và bằng con tim bởi Nabi Muhammad có di huấn e bảo:
« مَنْ رَأَى مِنْكُمْ مُنْكَرًا فَلْيُغَيِّرْهُ بِيَدِهِ فَإِنْ لَمْ يَسْتَطِعْ فَبِلِسَانِهِ فَإِنْ لَمْ يَسْتَطِعْ فَبِقَلْبِهِ وَذَلِكَ أَضْعَفُ الإِيمَانِ » (رواه مسلم)
“Ai trong các người nhìn thấy điều xấu thì hãy ngăn cản nó bằng chính đôi tay của mình, nếu như không thể thì bằng chiếc lưỡi của mình, con nếu như không thể thì bằng trái tim của mình và đó là sự yếu kém nhất của đức tin" (Muslim).
6- Jihad chống lại Shaytan: Hãy đấu tránh chống lại Shaytan bằng cách nghịch lại nó, không đi theo sự cám dỗ và lôi kéo của nó, bởi Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋإِنَّ ٱلشَّيۡطَٰنَ لَكُمۡ عَدُوّٞ فَٱتَّخِذُوهُ عَدُوًّاۚ إِنَّمَا يَدۡعُواْ حِزۡبَهُۥ لِيَكُونُواْ مِنۡ أَصۡحَٰبِ ٱلسَّعِيرِ ٦ ﮊ (سورة فاطر: 6)
{Quả thật, Shaytan là kẻ thù của các ngươi, cho nên hãy cư xử với nó như một kẻ thù. Quả thật nó chỉ luôn kêu gọi và lôi kéo những đồ đệ của nó để họ trở thành những người bạn của Hỏa ngục} (Chương 35 – Fatir, câu 6).
7- Jihad với bản ngã: Hãy đấu tránh chống lại nó, đừng buông thả theo nó mà hãy bắt nó phục tùng mệnh lệnh của Allah và tránh xa những điều bất tuân và trái lệnh Ngài. Allah đã phán bằng cách kể lại lời nói của người phụ nữ quyền quý, người đã mê hoặc và quyến rũ Nabi Yusuf:
ﮋوَمَآ أُبَرِّئُ نَفۡسِيٓۚ إِنَّ ٱلنَّفۡسَ لَأَمَّارَةُۢ بِٱلسُّوٓءِ إِلَّا مَا رَحِمَ رَبِّيٓۚ إِنَّ رَبِّي غَفُورٞ رَّحِيمٞ ٥٣ ﮊ (سورة يوسف: 53)
{Và tôi đã không tự cho mình hoàn toàn vô tội bởi vì quả thật dục vọng của bản thân (bản ngã) hay xúi giục làm điều tội lỗi trừ phi Thượng Đế của tôi yêu thương. Quả thật, Thượng Đế của tôi là Đấng hằng tha thứ và rất nhân từ} (Chương 12 – Yusuf – câu 53).
Có một nhà thơ đã viết:
Nghịch lại bản ngã và Shaytan!
Chớ vâng lời chúng, đừng nghe chúng!
Chúng cho lời khuyên đều ngon ngọt
Nhưng lại buộc tội không tiếc thương.
Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy phù hộ cho chúng con để chúng con luôn trở thành những người luôn biết đấu tranh và luôn noi theo tấm gương của Thiên sứ của Allah e!
Nabi Muhammad e di huấn:
« مَا حَقُّ امْرِئٍ مُسْلِمٍ يَبِيتُ لَيْلَتَيْنِ لَهُ شَىْءٌ يُرِيْدُ أَنْ يُوْصَى فِيْهِ إِلاَّ وَوَصِيَّتُهُ عِنْدَهُ مَكْتُوبَةٌ عِنْدَ رَأْسِهِ ». قَالَ عَبْدُ اللهِ بْنُ عُمَرَ مَا مَرَّتْ عَلَىَّ لَيْلَةٌ مُنْذُ سَمِعْتُ رَسُولَ اللهِ -صلى الله عليه وسلم- قَالَ ذَلِكَ إِلاَّ وَعِنْدِى وَصِيَّتِى. (رواه البخاري ومسلم)
“Mỗi một người Muslim khi ngủ đêm mà y có một điều gì đó muốn di chúc lại thì dĩ nhiên y phải nên viết sẵn lời di chúc và đặt ở ngay đầu nằm của mình". Abdullah con Umar k nói: Từ khi nghe được lời nói của Thiến sứ e thì không một đêm nào trôi qua mà tôi không chuẩn bị sẵn lời di chúc của tôi. (Albukhari, Muslim).
1- Tôi để lại một phần tài sản (.....) cho những bà con thân thuộc, những người láng giềng nghèo khó và những người túng thiếu khác. (không hơn một phần ba tài sản, không cho những người được hưởng quyền thừa kế)
2- Hãy cho những người ngoan đạo đến thăm để họ nhắc nhở tôi trong suốt thời gian tôi nằm bệnh sắp chết.
3- Hãy nhắc tôi nói lời Tawhid “لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ", trước khi chết chớ không phải sau khi chết, bởi Nabi Muhammad e có di huấn bảo:
« لَقِّنُوا مَوْتَاكُمْ لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ » (رواه مسلم)
“Hãy nhắc những người sắp chết của các người nói lời Tawhid “لَا إِلَـٰهَ إِلَّا اللهُ"" (Muslim).
«مَنْ كَانَ آخِرُ كَلَامِهِ لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ دَخَلَ الجَنَّةَ» (حديث حسن رواه الحاكم)
“Người nào mà lời nói cuối cùng của y là câu nói tawhid “لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللَّهُ" thì sẽ được vào Thiên Đàng" (Hadith tốt do Hakim ghi lại).
4- Những người còn sống hãy cầu nguyện cho tôi sau khi tôi chết:
اللهمَّ اِغْفِرْ لَهُ وَاِرْفَعْ دَرَجَتَهُ وَاِرْحَمْهُ
Ollo-hummagh-fir lahu warfa' darojatahu warhamhu
(Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy tha thứ tội lỗi cho y, hãy nâng y lên chỗ ở trên cao và hãy thương xót y!).
5- Khi tôi chết hãy giúp tôi thông tin cho người thân, bà con, những người Muslim, đặc biệt là Imam để y thông báo cho mọi người đến dâng lễ nguyện Salah.
6- Hãy mau chóng giúp tôi thanh toán những khoản nợ, bởi Nabi e có nói:
« نَفْسُ الْمُؤْمِنِ مُعَلَّقَةٌ دَيْنِهِ حَتَّى يُقْضِى عَنْهُ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Linh hồn của người có đức tin sẽ dính liền với khoản nợ của y cho tới khi khoản nợ đó được thanh toán xong" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
Và đối với một người có nhận thức đúng đắn thì y nên thanh toán cho xong khoản nợ nần của mình lúc vẫn còn sống trên thế gian để khỏi sợ bị sao lãng và quên mất đi khoản nợ đó sau khi chết đi.
7- Im lặng lúc tiễn đưa thi hài đi chôn cất, hãy đến cầu nguyện cho người chết thật nhiều và hãy thành tâm Du-a cho y.
8- Hãy Du-a xin tha thứ tội lỗi cho người chết sau khi đã chôn cất, bởi Naib Muhammad mỗi khi chôn người chết xong thì Người ở lại và nói: “Các người hãy cầu xin Allah tha thứ tội lỗi cho người ành em các người bởi lúc này đây, y đang bị tra hỏi". (Hadith xác thực do Hakim ghi lại).
9- An ủi người đang gặp chuyện buồn với lời được Nabi e di huấn:
«إِنَّ لِلهِ مَا أَخَذَ ، وَلَهُ مَا أَعْطَى ، وَكُلُّ شَىْءٍ عِنْدَهُ بِأَجَلٍ مُسَمًّى ، فَلْتَصْبِرْ وَلْتَحْتَسِبْ » (رواه البخاري)
“Quả thật, những gì Allah lấy và những gì Ngài cho đều là của Ngài, và tất cả mọi thứ đều có một thời hạn nhất định. Do đó, hãy kiên nhẫn và hài lòng!" (Albukhari).
Và việc đến an ủi và chia buồn với người có người thân qua đời không có thời gian hay địa điểm nhất định, và người có người thân qua đời hay gặp chuyện không may nên nói:
ﮋإِنَّا لِلَّهِ وَإِنَّآ إِلَيۡهِ رَٰجِعُونَﮊ (سورة البقرة : 156)
Inna lillah wa inna ilayhi ro-ji'u-n
{Quả thật, chúng con thuộc về Ngài và quả thật chúng có sẽ quay về với Ngài} (Chương 2- Albaqarah, câu 156)
Hoặc nói:
« اللَّهُمَّ أْجُرْنِى فِى مُصِيبَتِى وَأَخْلِفْ لِى خَيْرًا مِنْهَا » (رواه مسلم)
Ollo-humma'jurni fi musi-bati wa akhlif li khoiran minha.
“Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy cho con ân phước về tai họa của con và xin Ngài hãy ban cho con thứ khác tốt đẹp hơn" (Muslim).
Và bắt buộc những người thân của người chết phải biết kiên nhẫn chịu đựng và hài lòng với số phận mà Allah đã định.
10- Những người bà con của người chết, những người hàng xóm láng giềng và những bạn bè có trách nhiệm phải tiếp đãi thức ăn cho già đình người chết, bởi Nabi Muhammad e nói:
«اِصْنَعُوْا لِآلِ جَعْفَرَ طَعَاماً فَقَدْ أَتَاهُمْ مَا يَشْغُلُهُمْ» (حديث صحيح رواه الحاكم)
“Hãy làm thức ăn cho gia đình Ja'far bởi quả thật họ đã gặp phải chuyện làm tâm trí họ bận rộn" (Hadith xác thực do Hakim ghi lại).
* * *
1- Để lại di chúc cho một người nào đó thuộc những người được hưởng quyền thừa kế một phần tài sản nhất định nào đó, bởi Nabi Muhammad e có di huấn:
« لاَ وَصِيَّةَ لِوَارِثٍ » (حديث صحيح رواه الدارقطني)
“Không có di chúc dành cho người thừa kế" (Hadith xác thực do Adda-ruqatni).
2- Khóc lớn tiếng, la hét, gào thét, xé quần áo, mặc áo tang màu đen. Nabi Muhammad e nói:
« الْمَيِّتُ يُعَذَّبُ فِى قَبْرِهِ بِمَا نِيحَ عَلَيْهِ » (رواه البخاري ومسلم)
“Người chết sẽ bị hành hạ trong ngôi mộ của y bởi điều than khóc và gào thét" (nếu y di chúc lại cho người còn sống làm như vậy) (Albukhari, Muslim).
3- Thông báo bằng Azan, và bằng thiệp mời, hoặc tiếp đãi thức ăn đón khách, tất cả những việc làm đó đều là Bid'ah, làm lãng phí tiền bạc và bắt chước những người ngoại đạo, bởi trong Hadith xác thực Nabi Muhammad e có nói:
« وَمَنْ تَشَبَّهَ بِقَوْمٍ فَهُوَ مِنْهُمْ » (حديث صحيح رواه أبو داود)
“Và ai thích làm giống một nhóm người nào đó thì y thuộc nhóm người đó" (Hadith xác thưc do Abu Dawood ghi lại).
4- Thuê mướn những Sheikh đến nhà đọc Qur'an, bởi Nabi Muhammad e nói:
« اقْرَءُوا الْقُرْآنَ وَاعْمَلُوا بِهِ وَلاَ تَأْكُلُوا بِهِ وَلاَ تَسْتَكْثِرُوا بِهِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Các người hãy đọc Qur'an và làm theo nó, chớ dùng nó để ăn tiền bạc và dùng nó để tìm vật chất trần gian" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
Người cho tiền và người nhận tiền đều Haram, nhưng nếu chúng ta cho một số tiền cho người nghèo thì ân phước sẽ đến được với người chết.
5- Là điều không đúng theo Sunnah cho việc làm thức ăn và tụ tập lại tại nhà hay ở Masjid hoặc ở một nơi nào đó để an ủi gia đình người chết, bởi Jarir, một vị Sahabah t, có nói: Chúng tôi xem việc tụ tập tại nhà có người thân qua đời và làm thức ăn sau khi chôn cất người chết là một việc làm Niha-yah (gào thét, than vãn, khóc là) tức bị nghiêm cấm Haram. (Hadtih xác thực do Ahmad ghi lại).
Imam Shafi'i và Nawawi cũng nói trong sách Al-azkar ở chương “An ủi và chia buồn" rằng việc tụ tập trên là điều không được khuyến khích. Ibnu 'Abidi-n thuộc hệ phái Hanafi cũng cho rằng việc người nhà của người chết tiếp đãi khách viếng là điều không được khuyến khích bởi vì việc làm này được giáo luật qui định cho những chuyện vui chứ không phải đối với những chuyện buồn. Và trong Albaraziyah của Hanafi cũng cho rằng không đúng theo Sunnah cho việc làm thức ăn thức uống vào ngày thứ nhất và ngày thứ ba hoặc sau một tuần, hoặc mang thức ăn đồ uống đến mồ mả vào một dịp nào đó, hoặc mời người đến đọc Qur'an hoặc tìm mời những người ngoan đạo và những nhà đọc xướng để bế mạc đám tang.
6- Không được phép đọc Qur'an và làm sinh nhật cũng như làm lễ kỷ niệm tưởng nhớ cho người chết trên các mồ mả bởi không có bằng chứng nào cho thấy Thiên sứ e và các vị Sahabah của Người đã làm như thế.
7- Nghiêm cấm đặt các biểu tượng hoặc những bia đá hay những gì khác lên mồ mả rồi sơn phết và ghi chữ lên đó. Bởi lẽ Nabi Muhammad e đã ngăn cấm xây mồ mả, trát thạch cao cho nó và ghi chữ lên nó. (Muslim).
* * *
Vị vua Kisra đã gởi một bức thông điệp tới sứ thần đang ở Yemen rằng cho mời Muhammamd đến gặp Ngài. Thế là vị sứ thần đã cử phái hai thuộc hạ của ông đến Madinah. Và khi hai người này vào gặp Thiên sứ e, Người nhìn thấy râu mép của hai người này để dài và được uốn xoắn lại, hai bên gò má được cạo nhẵn bóng thì Người đùa nói: Ai đã ra lệnh cho các ông như vậy? Họ nói: Chúa của tôi (tức ám chỉ vua Kisra). Người e nói với họ: Con Chúa của tôi ra lệnh cho tôi để râu cằm (kể cả râu ở hai bên má) và bỏ đi râu mép. (Hadith tốt do Ibu Jarir ghi lại).
1- Những người đàn ông theo đạo Maju-s (thờ lửa) thường cạo sạch râu cằm và chừa râu mép theo tín ngưỡng của họ.
2- Thiên sứ e đã phủ nhận việc làm của hai người đó và ám chỉ hai người họ là những người ngoại đạo.
3- Có thể lên tiếng ngăn cản điều không đúng được công khai trước mắt cho dù có điều khác quan trọng hơn. Bởi Thiên sứ đã có thái độ chỉ trích và ngăn cản việc cạo sạch râu cằm nhưng lại không kêu gọi hai người đó đến với đức tin Iman, trong khi việc kêu gọi đến với Iman là điều quan trọng hơn việc cạo râu hay không cạo râu. Như vậy, chiếu theo cái lý này thì có thể nói là được phép lên tiếng ngăn cản và chỉ trích người Muslim cạo râu cằm hay hút thuốc lá trong khi y thường xuyên bỏ bể dâng lễ nguyện Salah chẳng hạn.
4- Haram cạo hoặc nhổ lông trên hai bên má vì nó cũng thuộc phần râu cằm bởi vì trong từ điển, từ “الحية" có nghĩa là “lông mọc ở cằm và hai bên má trên mặt đàn ông, râu".
5- Không được phép để dài râu mép và uốn cong nó mà chỉ được phép để râu mép giống như Sunnah của Thiên sứ e là cắt tỉa sao cho nó không phủ xuống mí môi trên. Nabi Muhammad e đã dùng Siwak (một loại cây trầm mà Nabi thường dùng chà răng) đặt nó trên môi trên và cắt tỉa những phần râu dài qua khỏi cây Siwak đó, và Người chưa từng cạo sạch hết râu mép.
6- Nếu Thiên sứ của Allah e đã không hài lòng hai người theo đạo Maju-s kia nhưng tại sao Người lại ngắm nhìn vào người đó về việc cạo râu của họ. Như vây, liệu có phải Người e cũng không hài lòng với những người Muslim khi Người ngoảnh mặt quay đi nếu như nhìn thấy họ cạo sạch râu của họ hoặc họ làm giống những người ngoại đạo hay làm giống như nữ giới? Câu trả lời là có, Thiên sứ e không hài lòng về việc họ cạo râu và dĩ nhiên họ còn đáng không hài lòng hơn hai người Maju-s kia nữa là khác.
7- Để râu cằm (râu quai hàm) là điều bắt buộc còn cạo sạch nó đi là Haram, bởi Nabi Muhammad e đã nói rằng Thượng Đế của tôi ra lệnh cho tôi. Mệnh lệnh là điều bắt buộc bởi Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋفَلۡيَحۡذَرِ ٱلَّذِينَ يُخَالِفُونَ عَنۡ أَمۡرِهِۦٓ أَن تُصِيبَهُمۡ فِتۡنَةٌ أَوۡ يُصِيبَهُمۡ عَذَابٌ أَلِيمٌ ﮊ (سورة النور : 63)
{Bởi thế, hãy cảnh cáo những ai chống đối mệnh lệnh của Y (Thiên sứ Muhammad) nên biết rằng làm như thế chúng sẽ gặp phải tai kiếp hay sẽ gặp phải một sự trừng phạt đau đớn} (Chương 24 – Annur, câu 63).
Hãy nỗ lực noi theo Thiên sứ e và những vị Sahabah của Người. Người đã bảo chúng ta để râu và cấm chúng ta cạo nó để khác với những người ngoại đạo và phụ nữ với rất nhiều lời di huấn khác nhau và xác thực.
Tất cả mỗi người Muslim phải tin rằng mọi điều tốt xấu đều do Allah định sẵn từ trước bởi kiến thức và ý chí của Ngài. Tuy nhiên, hành động tốt xấu là do bản thân người bề tôi tự quyết định lấy. Và việc tuân thủ theo mệnh lệnh và sự nghiêm cấm của Nabi e là bổn phận của người bề tôi. Do đó, người bề tôi không được phép làm điều sai trái nghịch lại Allah rồi bảo rằng đó là điều do Allah an bài. Allah, Đấng Tối Cao đã gửi đến những vị Rasul (Sứ giả) cùng với những kinh sách để hướng dẫn và giải thích rõ ràng đâu là con đường hạnh phúc và đâu là con đường bất hạnh, thêm vào đó, Ngài đã ban cho con người có trí óc biết suy ngẫm và biết nhận thức đâu là con đường được chỉ dẫn và đâu là con đường lầm lạc. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋإِنَّا هَدَيۡنَٰهُ ٱلسَّبِيلَ إِمَّا شَاكِرٗا وَإِمَّا كَفُورًا ﮊ (سورة الإنسان: 3)
{Quả thật, TA (Allah) đã hướng dẫn cho y (con người) một con đường, hoặc y là sẽ người biết ơn hoặc sẽ là người bội ơn} (Chương 76 – Al-Insan, câu 3).
Như vậy, nếu con người bỏ bê việc dâng lễ nguyện Salah, hoặc uống rượu thì y đáng bị trừng phạt bởi đã làm trái lệnh Allah, và trong trường hợp như vậy, y phải ăn năn và sám hối.
Nabi Muhammad e nói:
« لاَ تَحَاسَدُوا وَلاَ تَبَاغَضُوا وَلاَ تَحَسَّسُوا وَلاَ تَنَافَسُوا وَلاَ تَجَسَّسُوا وَلاَ تَنَاجَشُوا وَلاَتَهَاجَرُوا وَلاَ تَدَابَرُوا وَلاَ يَبِعْ بَعْضُكُمْ عَلَى بَيْعِ بَعْضٍ وَكُونُوا عِبَادَ اللهِ إِخْوَانًا كَمَا أَمَرَكُمْ: الْمُسْلِمُ أَخُو الْمُسْلِمِ لاَ يَظْلِمُهُ وَلاَ يَخْذُلُهُ وَلاَ يَحْقِرُهُ . التَّقْوَى هَا هُنَا، التَّقْوَى هَا هُنَا، وَيُشِيرُ إِلَى صَدْرِهِ ».
« بِحَسْبِ امْرِئٍ مِنَ الشَّرِّ أَنْ يَحْقِرَ أَخَاهُ الْمُسْلِمَ كُلُّ الْمُسْلِمِ عَلَى الْمُسْلِمِ حَرَامٌ دَمُهُ وَمَالُهُ وَعِرْضُهُ »
« إِيَّاكُمْ وَالظَّنَّ ، فَإِنَّ الظَّنَّ أَكْذَبُ الْحَدِيثِ »
« إِنَّ اللهَ لاَ يَنْظُرُ إِلَى صُوَرِكُمْ وَأَمْوَالِكُمْ وَلَكِنْ يَنْظُرُ إِلَى قُلُوبِكُمْ وَأَعْمَالِكُمْ »
(وراه مسلم ورواه البخاري أكثره)
“Các người chớ đừng đố kị lẫn nhau, đừng gây oán thù cho nhau, đừng nghe lén nhau, đừng đua tranh nhau, đừng dò thám chuyện xấu của nhau, đừng trả giá cao món hàng mà các ngươi không muốn mua nó, đừng ghét bỏ nhau, đừng quay mặt làm ngơ với nhau, và các người đừng buôn bán phá giá nhau, mà hãy là những huynh đệ của nhau trong đám bề tôi của Allah như Ngài đã ra lệnh cho các người: Người Muslim là anh em của người Muslim, hãy đối xử công bằng, hãy luôn ủng hộ, giúp đỡ, và chớ khinh khi người anh em của mình. Sự ngoan đạo là ở chỗ này, sự ngoan đạo là ở chỗ này (Người đưa tay chỉ lên ngực).."
“Một người được cho là làm điều xấu khi y đã khinh khi người anh em Muslim của y, người Muslim không được phép xâm phạm đến tính mạng, danh dự và tài sản của người Muslim".
“Các người hãy coi chừng, đừng nên nghi ngờ bởi quả thật, nghi ngờ là một điều nói dối"
“Quả thật, Allah không nhìn vào diện mạo và tài sản của các người mà Ngài chỉ nhìn vào trái tim và hành động của các người".
(Những Hadith trên do Muslim và Bukhari ghi lại, phần lớn là Bukhari).
* * *
1- « الْمُسْلِمُ مَنْ سَلِمَ الْمُسْلِمُونَ مِنْ لِسَانِهِ وَيَدِهِ » (متفق عليه)
1- “Người Muslim là người mà những người Muslim luôn được an toàn khỏi chiếc lưỡi và đôi tay của y" (Albukhari, Muslim).
2- « سِبَابُ الْمُسْلِمِ فُسُوقٌ وَقِتَالُهُ كُفْرٌ » (رواه البخاري)
2- “Chửi rủa người Muslim là điều xấu xa, gây chiến với người Muslim là vô đức tin" (Albukhari).
3- « غَطِّ فَخِذَكَ فَإِنَّ فَخِذَ الرَّجُلِ مِنْ عَوْرَتِهِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
3- “Hãy che đùi ngươi lại bởi quả thật, đùi của đàn ông là phần 'Awrah (phần kín phải được che đậy) của y". (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
4- « لَيْسَ الْمُؤْمِنُ بِالطَّعَّانِ وَلاَ اللَّعَّانِ وَلاَ الْفَاحِشِ وَلاَ الْبَذِىءِ» (حديث حسن رواه الترمذي وأحمد)
4- “Người có đức tin là người không bị thiên hạ chửi bới và nguyền rủa, không làm điều xấu và điều xàm bậy" (Hadith tốt do Tirmizhi và Ahmad ghi lại).
5- « مَنْ حَمَلَ عَلَيْنَا السِّلاَحَ فَلَيْسَ مِنَّا » (رواه مسلم)
5- “Ai mang vũ khí để gây chiến với chúng ta thì người đó không thuộc về chúng ta" (Muslim).
« مَنْ غَشَّ فَلَيْسَ مِنَّا » (حديث صحيح رواه الترمذي)
“Ai gian lận thì không phải cộng đồng của chúng ta" (Hadith xác thực do Tirmizhi ghi lại).
6- « مَنْ يُحْرَمِ الرِّفْقَ يُحْرَمِ الْخَيْرَ » (رواه مسلم)
7- “Ai ngăn cản lòng tốt tức đã ngăn cản điều lành" (Muslim).
7- « مَنْ أَحَبَّ أَنْ يَتَمَثَّلَ لَهُ النَّاسُ قِيَاماً فَلْيَتَبَوَّأْ مَقْعَدَهُ مِنَ النَّارِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
7- “Ai thích thiên hạ đứng nghiêm trang để kính cẩn và đề cao bản thân mình thì y hãy chuẩn bị chỗ ngồi của y trong Hỏa ngục" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
8- عَنْ أَبِى هُرَيْرَةَ قَالَ لَعَنَ رَسُولُ اللهِ -صلى الله عليه وسلم- الرَّاشِى وَالْمُرْتَشِى (حديث حسن رواه الترمذي)
8- Theo lời thuật của ông Abu Huroiroh t rằng Thiên sứ của Allah e đã nguyền rủa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ. (Hadith tốt do Timizhi ghi lại).
9- « مَا أَسْفَلَ مِنَ الْكَعْبَيْنِ مِنَ الإِزَارِ فَفِى النَّارِ » (رواه البخاري)
9- “Phần của quần áo thòng xuống qua khỏi mắt cá chân sẽ bị cho vào Hỏa ngục" (Albukhari).
10- « إِذَا قَالَ الرَّجُلُ لأَخِيهِ يَا كَافِرُ فَقَدْ بَاءَ بِهِ أَحَدُهُمَا » (رواه البخاري)
10- “Khi một người nói với người anh em của y “Đồ ngoại đạo!" thì quả thật điều đó sẽ rời vào bản thân y" (Albukhari).
11- « لاَ تَقُولُوا لِلْمُنَافِقِ سَيِّدَنَا فَإِنَّهُ إِنْ يَكُ سَيِّدَكُمْ فَقَدْ أَسْخَطْتُمْ رَبَّكُمْ عَزَّ وَجَلَّ » (حديث صحيح رواه أحمد)
11- “Các người đừng nói với người đạo đức giả (Muna-fiq) là ông chủ của chúng tôi, bởi quả thật, nếu y thực sự là ông chủ của các người thì chắc chắn các người đã làm Thượng Đế của các người, Đấng Tối Cao giận dữ". (Hadith xác thực do Ahmad)
12- « لاَ تَزَالُ طَائِفَةٌ مِنْ أُمَّتِى ظَاهِرِينَ عَلَى الْحَقِّ لاَ يَضُرُّهُمْ مَنْ خَذَلَهُمْ حَتَّى يَأْتِىَ أَمْرُ اللهِ » (رواه مسلم)
12- “Sẽ vẫn còn một nhóm người thuộc các tín đồ của ta luôn vững bước trên điều chân lý, những ai muốn làm hại họ sẽ không thể thực hiện được trừ phi Allah cho phép điều đó" (Muslim).
* * *
Jabir nói t: Thiên sứ của Allah e thường dạy chúng tôi cầu nguyện Al-Istikha-rah trong tất cả mọi vụ việc. Người dạy chúng tôi như dạy cả chương kinh Qur'an vậy, Người nói: Nếu các người gặp điều gì buồn phiền thì các người hãy dâng lễ nguyện Salah hai Rak-at ngoài các lễ nguyện Salah bắt buộc, rồi sau đó hãy cầu nguyện:
« اللَّهُمَّ إِنِّى أَسْتَخِيرُكَ بِعِلْمِكَ وَأَسْتَقْدِرُكَ بِقُدْرَتِكَ ، وَأَسْأَلُكَ مِنْ فَضْلِكَ الْعَظِيمِ ، فَإِنَّكَ تَقْدِرُ وَلاَ أَقْدِرُ وَتَعْلَمُ وَلاَ أَعْلَمُ وَأَنْتَ عَلاَّمُ الْغُيُوبِ .
اللَّهُمَّ إِنْ كُنْتَ تَعْلَمُ أَنَّ هَذَا الأَمْرَ خَيْرٌ لِى فِى دِينِى وَمَعَاشِى وَعَاقِبَةِ أَمْرِى - أَوْ قَالَ عَاجِلِ أَمْرِى وَآجِلِهِ - فَاقْدُرْهُ لِى وَيَسِّرْهُ لِى ثُمَّ بَارِكْ لِى فِيهِ ، وَإِنْ كُنْتَ تَعْلَمُ أَنَّ هَذَا الأَمْرَ شَرٌّ لِى فِى دِينِى وَمَعَاشِى وَعَاقِبَةِ أَمْرِى - أَوْ قَالَ فِى عَاجِلِ أَمْرِى وَآجِلِهِ - فَاصْرِفْهُ عَنِّى وَاصْرِفْنِى عَنْهُ ، وَاقْدُرْ لِى الْخَيْرَ حَيْثُ كَانَ ثُمَّ أَرْضِنِى - قَالَ - وَيُسَمِّى حَاجَتَهُ » (رواه البخاري)
“Ollo-humma inni astakhi-ruka bi 'ilmika wa astaqdiruka bi qudrotika wa as-aluka min fadhlikal 'azi-m, fa innaka taqdiru wa la aqdir, wa ta'lamu wa la 'alam, wa anta ghulla-mul ghuyu-b.
Ollo-humma in kunta ta'lam anna ha-zhal amru khoirun li fi di-ni wa ma'a-shi wa 'aqibati amri (hoặc nói fi 'a-jili amri và a-jilih) faqdur huli, wa yassir huli, thumma ba-rik li fi-h; wa in kunta ta'lam anna ha-zhal amru sharrulli li fi di-ni wa ma'a-shi wa 'aqibati amri (hoặc nói fi 'a-jili amri và a-jilih) fasrif hu 'anni, wasrifni 'anhu, waqdur li alkhoira haythu ka-na, thumma radhini bihi".
“Lạy Thượng Đế, quả thật bề tôi xin Ngài hãy ban cho bề tôi điều tốt đẹp và an lành bằng kiến thức của Ngài, xin Ngài ban cho khả năng từ khả năng của Ngài, xin mọi điều phúc lành nhất ở nơi Ngài, bởi quả thật Ngài là Đấng toàn năng còn bề tôi không có quyền năng nào cả, Ngài hiểu biết tất cả còn bề tôi không biết gì, và Ngài là am tường mọi điều vô hình.
Lạy Thượng Đế, nếu Ngài biết rõ rằng điều này (điều phiền muộn, nan giải) tốt đẹp cho bề tôi trong đạo, đời và trong thành tựu của bề tôi (hoặc nói: trong cuộc sống ở đời này và cuộc sống ở đời sau) thì xin Ngài hãy định đoạt nó cho bề tôi, hãy tạo sự dễ dàng cho bề tôi, rồi xin Ngài hãy ban phúc lành cho bề tôi về điều đó; tuy nhiên, nếu Ngài biết rõ rằng điều này (điều phiền muộn, nan giải) là điều xấu cho bề tôi trong đạo, đời và trong thành tựu của bề tôi (hoặc nói: trong cuộc sống ở đời này và cuộc sống ở đời sau) thì xin Ngài hãy lấy nó đi khỏi bề tôi, hãy lấy bề tôi ra xa nó, và xin Ngài hãy định đoạt cho bề tôi sự tốt đẹp nhất rồi xin Ngài hãy làm cho bề tôi luôn biết hài lòng về những gì Ngài đã định." (Albukhari).
Và đây là lễ nguyện Salah và bài du-a mà con người thực hiện nó cho bản thân mình giống như y uống thuốc để được Thượng Đế của y ban cho y điều tốt đẹp và phúc lành nhất, và một trong những dấu hiệu cho điều tốt đẹp và phúc lành là Ngài luôn tạo mọi điều kiện dễ dàng và thuận lợi trong mọi vụ việc và hành động của y.
* * *
1- Hãy đặt tay lên chỗ đau của cơ thể mình và nói: “بِسْمِ اللهِ" “Bissmillah" ba lần, rồi nói thêm bảy lần câu tụng niệm sau:
« أَعُوذُ بِاللهِ وَقُدْرَتِهِ مِنْ شَرِّ مَا أَجِدُ وَأُحَاذِرُ » (رواه مسلم)
“A'u-zhu billah wa qurotihi min sharri ma ajidu wa uha-zhir".
“Với quyền năng của Allah, xin Ngài hãy giúp con tránh khỏi điều xấu mà con đang gặp phải" (Muslim).
2- « اللَّهُمَّ رَبَّ النَّاسِ أَذْهِبِ الْبَاسَ ، اشْفِهِ وَأَنْتَ الشَّافِى ، لاَ شِفَاءَ إِلاَّ شِفَاؤُكَ ، شِفَاءً لاَ يُغَادِرُ سَقَمًا » (متفق عليه)
2- “Ollo-humma Rabban na-s azhhibil ba-s, ishfihi wa antas Sha-fi, la shifa' illa shifa-uka, shifa-an la yugho-diru saqoman"
“Lạy Thượng Đế, Đấng Chủ Tể của nhân loại, xin Ngày hãy làm mất đi điều dữ này, xin Ngài hãy chữa lành cơn đau bởi Ngài là Đấng làm cho khỏi bệnh, không có sự điều trị nào ngoài sự điều trị của Ngài, một sự điều trị cho mọi căn bệnh nào" (Albukhari, Muslim).
3- « أَعُوذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَّةِ مِنْ كُلِّ شَيْطَانٍ وَهَامَّةٍ وَمِنْ كُلِّ عَيْنٍ لاَمَّةٍ » (رواه البخاري)
3- “A'u-zhu bi kalima-tilla-hitta-mmah min kulli shayto-nin wa ha-mmatin wa min kulli 'aynin la-mmah"
“Xin được che chỡ bởi những lời phán hoàn hảo của Allah khỏi tất cả mọi Shaytan, mọi điều phiền muộn, và tất cả mọi điều xấu" (Albukhari).
4- « مَنْ عَادَ مَرِيضًا لَمْ يَحْضُرْ أَجَلُهُ فَقَالَ عِنْدَهُ سَبْعَ مِرَارٍ أَسْأَلُ اللهَ الْعَظِيمَ رَبَّ الْعَرْشِ الْعَظِيمِ أَنْ يَشْفِيَكَ إِلاَّ عَافَاهُ اللهُ مِنْ ذَلِكَ الْمَرَضِ » (رواه الترمذي وصححه الحاكم ووافقه الذهبي)
4- “Ai đi viếng người bệnh không phải là người bệnh sắp chết, y nói bảy lần câu:“أَسْأَلُ اللهَ الْعَظِيمَ رَبَّ الْعَرْشِ الْعَظِيمِ أَنْ يَشْفِيَكَ" “As-alukollo hal azhi-m Rabbal 'arshil 'azhi-m an yashfi-ka" (có nghĩa là: Tôi cầu xin Allah, Đấng vĩ đại, Chủ nhân của chiếc Ngai vương vĩ đại, ban cho anh khỏi bệnh!) thì chắc chắn Allah sẽ cho người bệnh đó khỏi bệnh." (Hadith do Tirmizhi ghi lại, được Hakim và Azhahabi đồng xác nhận là đúng và xác thực).
5- « مَنْ رَأَى مُبْتَلًى فَقَالَ الْحَمْدُ لِلهِ الَّذِى عَافَانِى مِمَّا ابْتَلاَكَ بِهِ وَفَضَّلَنِى عَلَى كَثِيرٍ مِمَّنْ خَلَقَ تَفْضِيلاً لَمْ يُصِبْهُ ذَلِكَ الْبَلاَءُ » (حديث حسن رواه الترمذي)
5- “Ai nhìn thấy người gặp nạn rồi nói:
الْحَمْدُ لِلهِ الَّذِى عَافَانِى مِمَّا ابْتَلاَكَ بِهِ وَفَضَّلَنِى عَلَى كَثِيرٍ مِمَّنْ خَلَقَ تَفْضِيلاً
Alhamdulilla hilazhi 'a-fa-ni mimma ibtala-ka bihi wa fadhdholani 'ala kathirin mimman kholaqo tafdhi-la
(Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng lên Allah, Đấng đã cho tôi an lành khỏi những tai họa mà y gặp phải và đã cho tôi ân phúc hơn nhiều người được ân phúc) thì y sẽ không gặp phải nạn kiếp đó nữa".
6- Đọc bài Fatihah, chương Annas, Alfalaq, cầu xin Allah, Đấng duy nhất ban cho khỏi bệnh, kết hợp giữa Du-a và phương thuốc, bố thí cho người nghèo, rồi Allah sẽ ban cho khỏi bệnh.
* * *
1- Nabi Muhammad e nói:
«مَنْ أَرَادَ أَنْ يُسَافِرَ فَلْيَقُلْ لِمَنْ يَخْلِفُ: أَسْتَوْدِعُكُمْ اللهَ الَّذِيْ لاَ تَضِيْعُ وِدَائِعُهُ» (حديث حسن رواه أحمد)
“Ai muốn đi xa thì hãy nói với những người ở lại:
أَسْتَوْدِعُكُمْ اللهَ الَّذِيْ لاَ تَضِيْعُ وِدَائِعُهُ
Astadi'ukummullo hallazhi la tadhi-'u wida-'uhu (có nghĩa là: Mọi điều xin trông cậy vào Allah, Đấng sẽ không làm mất điều ký thác)" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
2- Khi nào chúng ta lên xe, tàu hay những phương tiện nào khác thi hãy nói:
بِسْمِ اللهِ وَالْحَمْدُ لِلهِ
سُبْحَانَ الَّذِى سَخَّرَ لَنَا هَذَا وَمَا كُنَّا لَهُ مُقْرِنِينَ وَإِنَّا إِلَى رَبِّنَا لَمُنْقَلِبُونَ. الْحَمْدُ لِلهِ الْحَمْدُ لِلهِ ، الْحَمْدُ لِلهِ ، وَاللهُ أَكْبَرُ، وَاللهُ أَكْبَرُ وَاللهُ أَكْبَرُ ، سُبْحَانَكَ إِنِّى قَدْ ظَلَمْتُ نَفْسِى فَاغْفِرْ لِى فَإِنَّهُ لاَ يَغْفِرُ الذُّنُوبَ إِلاَّ أَنْتَ
Bissmillah walhamdulillah
Subha-nallazhi sakhkhoro lana ha-zha wama kunna lahu muqtarini-n wa inna ila Rabbina lamunqolibu-n. Alhamdulillah, Alhamdulillah, Alhamdulillah, wollo-hu akbar, wollo-hu akbar, wollo-hu akbar, Subha-nak inni qod zholamtu nafsi faghfirli fa innah la yaghfiruzh zhunu-ba illa anta.
Nhân Danh Allah và xin ca ngợi tán dương Allah.
Quang vinh thay Đấng đã chế ngự con (vật) này cho chúng con sử dụng vì chúng con không đủ khả năng chế ngự nó. Và chắc chắn chúng con sẽ trở về gặp Thượng Đế của chúng con. Xin ca ngợi tán dương Allah, xin ca ngợi tán dương Allah, xin ca ngợi tán dương Allah, Allah Đấng vĩ đại nhất, Allah Đấng vĩ đại nhất, Allah Đấng vĩ đại nhất, quang vinh thay Ngài, quả thật con đã bất công với bản thân mình xin Ngài hãy tha thứ cho con, bởi quả thật không có ai có quyền tha thứ tội lỗi mà chỉ có Ngài duy nhất.
(Hadith tốt và xác thực do Tirmizhi ghi lại).
3- Hoặc bài Du-a:
« اللَّهُمَّ إِنَّا نَسْأَلُكَ فِى سَفَرِنَا هَذَا الْبِرَّ وَالتَّقْوَى وَمِنَ الْعَمَلِ مَا تَرْضَى
اللَّهُمَّ هَوِّنْ عَلَيْنَا سَفَرَنَا هَذَا وَاطْوِ عَنَّا بُعْدَهُ
اللَّهُمَّ أَنْتَ الصَّاحِبُ فِى السَّفَرِ وَالْخَلِيفَةُ فِى الأَهْلِ
اللَّهُمَّ إِنِّى أَعُوذُ بِكَ مِنْ وَعْثَاءِ السَّفَرِ وَكَآبَةِ الْمَنْظَرِ وَسُوءِ الْمُنْقَلَبِ فِى الْمَالِ وَالأَهْلِ ». (رواه مسلم)
“Ollo-humma inna nas-aluka fi safarina ha-zha albir wattaqwa, wa minal 'amalima tardho.
Ollo-humma hawwin 'alayna safarona ha-zha, watwi 'anna bu'dah.
Ollo-humma antas so-hibu fis safar wal kholi-fatu fil ahli.
Ollo-humma inni a-'uzhu bika min wa'tha-is safar wa ka-a-batil manzhar wa su-il munqolabi fil ma-li wal ahli."
“Lạy Thượng Đế, quả thật, chúng con xin Ngài luôn phù hộ cho chúng con thành những người ngoan đạo và kính sợ Ngài trong chuyến đi xa này, và những việc làm được Ngài hài lòng.
Lạy Thượng Đế, xin Ngài tạo mọi sự dễ dạng và thuận lợi cho chuyến đi xa này của chúng con, xin Ngài hãy làm cho lộ trình ngắn lại.
Lạy Thượng Đế, Ngài là người bạn đồng hành của chúng con trong chuyến đi, là vị trông coi và quản lý gia đình của chúng con.
Lạy Thượng Đế, quả thật, con xin Ngài che chở khỏi những gian nan trong chuyến đi, khỏi những tai họa và điều không lành về tài sản cũng như gia đình của con" (Muslim).
4- Người đi xa khi trở về nên nói thêm:
آيِبُوْنَ، تَائِبُوْنَ عَابِدُوْنَ لِرَبِّنَا حَامِدُوْنَ
A-yibu-n, ta-ibu-n 'a-bidu-n lirabbina ha-midu-n.
Chúng con xin quay về sám hối, thờ phượng và tán dương Thượng Đế của chúng con!.
* * *
Nếu muốn được đỗ đạt trong thi cử hay trong mọi việc làm khác thì hãy cầu nguyện với những lời Du-a sau đây:
1- Hadith:
«سَمِعَ النَّبِىُّ -صلى الله عليه وسلم- رَجُلاً يَدْعُو وَهُوَ يَقُولُ اللَّهُمَّ إِنِّى أَسْأَلُكَ بِأَنِّى أَشْهَدُ أَنَّكَ أَنْتَ اللهُ لاَ إِلَهَ إِلاَّ أَنْتَ الأَحَدُ الصَّمَدُ الَّذِى لَمْ يَلِدْ وَلَمْ يُولَدْ وَلَمْ يَكُنْ لَهُ كُفُوًا أَحَدٌ.
قَالَ فَقَالَ « وَالَّذِى نَفْسِى بِيَدِهِ لَقَدْ سَأَلَ اللهَ بِاسْمِهِ الأَعْظَمِ الَّذِى إِذَا دُعِىَ بِهِ أَجَابَ وَإِذَا سُئِلَ بِهِ أَعْطَى » (حديث صحيح رواه أحمد و الترمذي)
Nabi Muhammad e nghe một người đàn ông cầu nguyện với lời:
«اللَّهُمَّ إِنِّى أَسْأَلُكَ بِأَنِّى أَشْهَدُ أَنَّكَ أَنْتَ اللهُ لاَ إِلَهَ إِلاَّ أَنْتَ الأَحَدُ الصَّمَدُ الَّذِى لَمْ يَلِدْ وَلَمْ يُولَدْ وَلَمْ يَكُنْ لَهُ كُفُوًا أَحَدٌ. »
“Ollo-humma inni as-aluka bi anni ashhadu annaka antollo-h la ilaha illa antal ahad assomadul lazhi lam yalid wa lam yu-lad wa lam yakul lahu kufuwan ahad" có nghĩa là “Lạy Thượng Đế, với việc tôi chứng nhận Ngài là Allah, không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Ngài, Đấng Duy nhất, Đấng Tự Hữu, Đấng không sinh đẻ ai cũng không do ai sinh đẻ, và không có bất cứ diều điều gì có thế so sánh cùng Ngài, bề tôi xin Ngài ..." thì Người e bảo: “Allah chứng giám rằng chắc chắn y đã cầu xin Allah với đại danh của Ngài cái mà khi được cầu nguyện bởi nó thì sẽ được đáp lại và khi cầu xin điều gì thì sẽ được ban cho điều đó." (Hadith xác thực do Ahmad và Tirmizhi ghi lại).
2- Nabi Muhammad e nói:
« دَعْوَةُ ذِى النُّونِ إِذْ دَعَا وَهُوَ فِى بَطْنِ الْحُوتِ لاَ إِلَهَ إِلاَّ أَنْتَ سُبْحَانَكَ إِنِّى كُنْتُ مِنَ الظَّالِمِينَ. فَإِنَّهُ لَمْ يَدْعُ بِهَا رَجُلٌ مُسْلِمٌ فِى شَىْءٍ قَطُّ إِلاَّ اسْتَجَابَ اللهُ لَهُ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Lời Du-a của Nabi Yunus khi Người ở trong bụng của con cá voi khổng lồ:
لاَ إِلَهَ إِلاَّ أَنْتَ سُبْحَانَكَ إِنِّى كُنْتُ مِنَ الظَّالِمِينَ.
La ilaha illa anta subha-naka inni kuntu minazh zho-limi-n, có nghĩa là (Không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Ngài, quang vinh thay Ngài, quả thật bề tôi đã là một trong những kẻ làm điều sai quấy). Như vậy, bất cứ điều gì mà người Muslim cầu xin Allah bởi nó (lời du-a) thì chắc chắn Allah sẽ đáp lại lời cầu xin của y" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
3- Hẳn nhiên chúng ta phải tìm lấy nguyên nhân cho mọi sự thành công và những nguyên nhân đó chính là hành động, nỗ lực và Du-a.
Ibnu Umar t được hỏi về người thất lạc và bị thất lạc đồ đạc thì ông nói: Y hãy lấy nước Wudu, dâng lễ nguyện Salah hai Rak-at và sau bài Tasha-hud (trước khi cho Salam) thì hãy cầu nguyện:
اللهُمَّ رَادِّ الضَّالَّةَ ، هَادِيَ الضَّلاَلَةَ ، تَهْدِيْ مِنَ الضَّلاَلِ، رُدَّ عَلَيَّ ضَالَّتِيْ بِقُدْرَتِكَ وَسُلْطَانِكَ، فَإِنَّهَا مِنْ فَضْلِكَ وَعَطَائِكَ. (قال البيهقي هذا موقوف وهو حسن)
Ollo-humma ro-ddidh dhola-lah, ha-diyadh dhola-lah, tahdi minadh dhola-lah, rudda 'alayya dho-llati bi qudrotika wa sulto-nika, fa innaha min fodhlika wa 'ato-ika.
(Lạy Thượng Đế, xin Ngài tìm giúp đồ thất lạc, hướng dẫn sự thất lạc, dẫn dắt ra khỏi sự thất lạc. Với quyền năng của Ngài, xin Ngài cho thấy lại đồ thất lạc, bởi quả thật nó là từ ân phúc của Ngài ban cho.) (Albayhaqi nói đây là lời của Sahabah và nó tốt).
Vị lãnh tụ của những người có đức tin, Umar bin Atkhattab t, đã cử Sa'ad bin Abu Wiqa-s t chỉ huy một toán quân đi chinh phục đất nước Ba Tư, đồng thời đã viết bức thông điệp nhắn nhủ và dặn dò với nội dung như sau:
1- Kính sợ Allah:
Quả thật, ta ra lệnh cho ngươi và những ai đi cùng với ngươi trong các chiến binh là phải kính sợ Allah trong bất cứ tính huống nào. Bởi quả thật, lòng kính sợ Allah là vũ khí tốt nhất để đánh kẻ thù, là sức mạnh mưu lược trong chiến đấu.
2- Không làm những điều tội lỗi và trái đạo:
Và ta ra lệnh cho ngươi và những ai cùng với ngươi hãy tuyệt đối tránh xa những điều tội lỗi và nghịch đạo. Bởi quả thật, tội lỗi của đoàn quân sẽ khiến họ khiếp sợ trước kẻ thù, và quả thật những người Muslim giành được thắng lợi là do sự nghịch đạo và bất tuân Allah của kẻ thù, và nếu không phải như thế thì người Muslim không đủ sức mạnh vì quân số của ta không bằng quân số của địch, vũ khí chiến đấu của ta cũng không bằng vũ khí chiến đấu của địch. Do đó, nếu quân ta làm điều tội lỗi, nghịch lại mệnh lệnh của Allah thì chắc chắn quân địch sẽ mạnh hơn ta, và nếu ta không thể giành được thắng lợi bởi ân phúc của ta trên họ thì ta sẽ không thể thắng được địch bằng chính sức mạnh của ta.
Và các ngươi hãy biết rằng quả thật mọi động thái của các ngươi đều có những vị ở nơi Allah giám sát và theo dõi, họ biết rõ mọi điều các ngươi làm. Do đó, hãy biết xấu hổ trước họ mà đừng làm những gì trái lệnh Allah trong khi các ngươi đang chiến đấu trên con đường chính nghĩa của Allah. Các ngươi đừng bao giờ nói rằng nếu quân địch xấu xa và tội lỗi hơn ta thì chúng sẽ không bao giờ chế ngự được ta, ngay cả chúng ta phạm lỗi, bởi quả thật, có thể một nhóm người sẽ chế ngự được một nhóm người kia cho dù nhóm người giành quyền chế ngự là những người xấu xa và tội lỗi hơn nhóm người bị chế ngự, cũng như những người thờ lửa đã giành quyền chế ngự dân tộc Isra-il.
3- Cầu xin Allah phù hộ và giúp đỡ:
Hãy cầu xin Allah phù hộ cho bản thân các ngươi giống như cac ngươi cầu xin Ngài giúp các ngươi giành chiến thắng kẻ thù, và ta cầu xin Allah điều đó cho tất cả chúng ta.
* * *
1- Islam là tôn giáo của Tawhid (tôn thờ một Đấng duy nhất). Do đó, đức tin vào sự hiện hữu một Đấng Tạo Hóa Duy Nhất của toàn vũ trụ là một sự thật mà tất cả mọi trí tuệ tư duy phải thừa nhận.Và Đấng Táo Hóa này chính là Thượng Đế Allah, Đấng thờ phượng đích thực, đáng được thờ phượng duy nhất như giết tế, nguyện thề, .. và đặc biệt là việc Du-a bởi Nabi đã bảo rằng: “Du-a là hình thức thờ phượng" (Hadith xác thực do Tirmizhi ghi lại). Cho nên, không được dùng bất cứ hình thức thờ phượng nào hướng đến một ai (vật) nào khác ngoài Ngài.
Và trong những thuộc tính của Allah là Sự Tối Cao của Ngài trên tất cả mọi vạn vật, Ngài nói:
ﮋسَبِّحِ ٱسۡمَ رَبِّكَ ٱلۡأَعۡلَى ١ ﮊ (سورة الأعلى)
{Háy tán dương đại danh Thượng Đế của Ngươi, Đấng Tối Cao} (Chương 87 – Al'Ala, câu 1).
Còn riêng lời phán của Ngài rằng (Ngài luôn cùng với các ngươi ở bất kỳ nơi nào mà các ngươi có mặt) có nghĩa là Ngài luôn theo sát chúng ta bởi kiến thức của Ngài, Ngài nhìn thấy chúng ta và nghe được chúng ta như đã được giải thích rõ trong bộ Tafseer Ibnu Kathir.
2- Islam là tôn giáo đoàn kết không chia rẽ: Tín đồ Muslim tin vào tất cả các vị Thiên sứ được Allah cử phái đến hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, giúp nhân loại có cuộc sộng trật tự và nề nếp một cách tốt đẹp, trong đó, Thiên sứ Muhammad e là vị cuối cùng, giáo luật mà Người mang đến đã xóa đi những gì trước đó theo sắc lệnh từ Allah, Đấng Tối Cao. Allah đã cử phái Người đến với toàn nhân loại để cứu rỗi họ thoát khỏi những tôn giáo bất công đến với sự công bằng của Islam, một tôn giao luôn được bảo tồn.
3- Tất cả những giáo lý cũng như những giáo điều của Islam đều đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu. Chúng không dựa trên những điều mê tín sàm bậy, những tư tưởng bệnh hoạn hãy những triết lý nhất thời, mà chúng là một hệ thống phép tắc thực hành hoàn hảo giúp cải thiện tốt đẹp cuộc sống xã hội ở mọi thời đại và mọi nơi.
4- Islam không tách rời giữa vật chất và tinh thần một cách hoàn toàn, mà luôn nhìn nhận chúng là một thực thể không thể thiếu vắng nhau. Do đó, Islam không hề coi trọng cái này mà bỏ mặt cái kia.
5- Trong Islam, tất cả mỗi linh hồn đều như nhau, đều bình đẳng, không ai hơn ai, tất cả tín đồ Muslim đều là huynh đệ của nhau. Islam nghiêm cấm và chỉ trích sự chia rẽ, phân biệt giai cấp, phân biệt chủng tộc. Allah phán trong kinh Qur'an của Ngài:
ﮋ إِنَّ أَكۡرَمَكُمۡ عِندَ ٱللَّهِ أَتۡقَىٰكُمۡۚﮊ (سورة الحجرات: 13)
{Quả thật, sự cao quý của các ngươi đối với Allah là lòng kính sợ và sự ngoan đạo của các ngươi} (Chương 49 – Al-Hujura-t, câu 13).
6- Trong Islam, không có bất cứ thầy tu hay tu sĩ chuyên biệt nào, chẳng có một tư tưởng hay giáo lý khiến người ta khó hiểu và cũng chẳng có một vị nào chuyên về đạo, mà tất cả mỗi người đều có thể đọc Kinh Qur'an của Allah và Hadith của Thiên sứ thông qua sự giải thích ý nghĩa của những người ngoan đạo thông lãm để rồi sau đó họ tự mình hành đạo và sống theo đúng chỉ đạo của Qur'an và Hadith.
1- Quả thật, Islam tổ chức và thiết lập đời sống nhân loại trong những lĩnh vực khác nhau, như kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, cũng như nó đã vạch ra cho từng lĩnh vực đường lối đúng đắn để giải quyết các vấn đề tồn tại trong đó.
2- Islam là một tôn giáo tìm đến nề nếp và trật tự của cuộc sống con người. Cơ cấu căn bản đầu tiên của Islam đó là nề nếp về thời gian, và duy nhất chỉ có Islam mới là động lực mạnh mẽ để người Muslim thành đạt trên cõi đời này và cả Đời Sau.
3- Trong Islam, đức tin luôn đi trước giáo luật, bởi Thiên sứ e đã tập trung hết sức lực của Người vào giáo lý Tawhid trong khoảng thời gian đầu khởi nghiệp sứ mạng tại Makkah, rồi sau đó, Người mới cho thi hành giáo luật khi Người đã dời cư đến Madinah gầy dựng và thiết lập một đất nước Islam.
4- Islam kêu gọi mọi người đến với kiến thức, khuyến khích và ủng hộ sự phát triển của nền khoa học hữu ích. Quả thật, những người Muslim trong những thế kỷ giữa của thời đại đã xuất hiện nhiều nhà khoa học xuất chúng như nhà khoa học Ibn Alhythm, Albairu-ni và những nhà khoa học khác.
5- Islam cho phép tìm kiếm tiền bạc bằng con đường Halal, con đường không có gian lận và lừa đảo, không cướp giật và bóc lột người khác. Islam khuyến khích người ngoan đạo dùng tiền Halal chia sẻ cho người nghèo khó, đóng góp vào sự nghiệp đấu trành cho con đường chính nghĩa của Allah. Và điều này đã khẳng định tính công bằng của xã hội trong cộng đồng Islam, một cộng đồng áp dụng và tuân thủ theo luật của Đấng Tạo hóa. Và trong một Hadith, Nabi e có nói:
« نِعْمَ الْمَالُ الصَّالِحُ لِلْمَرْءِ الصَّالِحِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Ân phúc thay cho đồng tiền tốt lành của một người tốt lành!" (Hadith xác thực do Ahamd ghi lại).
Còn về câu nói của ai đó rằng (không có đồng tiền nào kiếm được hoàn toàn Halal cả) là điều không thực, giả dối không có cơ sở.
6- Islam là tôn giáo của đấu tranh và đời sống: Mỗi tín đồ Muslim có trách nhiệm và bổn phận đóng góp công sức và hiến một phần của cải của mình cho con đường gầy dựng và bảo vệ Islam. Islam là tôn giáo của đời sống bởi nó luôn mong muốn và khuyến khích mỗi người Muslim có cuộc sống sung túc và ấm no dưới bóng mát của nó và nó cũng muốn những người khác sống tốt đẹp trên thế gian này.
7- Islam cho phép tự do tư duy trong khuôn khổ và phạm vi của nó, không làm đóng băng những suy nghĩ và tư tưởng hữu ích, miễn sao những suy nghĩ, tư tưởng đó giúp làm cho Islam thêm vững mạnh và trong sáng chứ không phải đưa những người Muslim trở nên sai lệch như những tư tưởng Bid-ah, mê tín dị đoan, và những Hadith bịa đặt.
Quả thật, Islam đã tôn vinh người phụ nữ. Islam đã giao phó việc trông coi và dạy dỗ những thế hệ của cuộc đời, họ là nguồn cải thiện cho các tế bào của cộng đồng và xã hội, Islam bảo họ phải che kín toàn thân nhằm để bảo vệ họ khỏi những điều xấu không mong muốn, bảo vệ cái đẹp và quí phái của họ, sự che kín toàn thân còn là một tình yêu trọn vẹn của đôi lứa vợ chồng, bởi người đàn ông khi nhìn thấy người phụ nữ khác đẹp hơn vợ mình thì có thể sẽ có rạn nứt trong quan hệ vợ chồng của y, và có thể gây ra việc chia tay không mong muốn.
Việc ăn mặc che kín toàn thân được Allah phán trong kinh Qur'an như sau:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّبِيُّ قُل لِّأَزۡوَٰجِكَ وَبَنَاتِكَ وَنِسَآءِ ٱلۡمُؤۡمِنِينَ يُدۡنِينَ عَلَيۡهِنَّ مِن جَلَٰبِيبِهِنَّۚ ذَٰلِكَ أَدۡنَىٰٓ أَن يُعۡرَفۡنَ فَلَا يُؤۡذَيۡنَۗ ﮊ (سورة الأحزاب: 59)
{Hỡi Nabi (Muhammad!) hãy bảo các bà vợ của Ngươi, các đứa con gái của Ngươi và các bà vợ của những người có đức tin dùng áo choàng phủ kín cơ thể của họ. Như thế sẽ dễ nhận biết họ và họ sẽ không bị xúc phạm} (Chương 33 – Al-Ahzab, câu 59).
1- Nữ lãnh đạo cấp cao Anny Bazant đã nói rằng: Theo suy nghĩ của tôi, phụ nữ dưới bóng mát của Islam có quyền tự do hơn những phụ nữ khác. Islam đã bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ nhiều hơn các tôn giáo khác, những tôn giáo cho phép người đàn ông cưới nhiều vợ. Giáo lý Islam về phụ nữ mang lại nhiều công bằng hơn và đảm bảo quyền tự do hơn cho họ, phụ nữ ở vương quốc Anh chỉ có được quyền sở hữu từ sau khi đã được hai mươi tuổi mà thôi, nhưng ta thấy Islam đã khẳng định cái quyền này cho phụ nữ ngày từ khoảnh khắc đầu tiên của cuộc đời. Như vậy, thực sự là một điều phỉ báng và oan uổng khi nói Islam đã coi phụ nữ chỉ là những cơ thể sống.
2- Và bà ta cũng nói: Khi nào chúng ta đem sự việc ra cân trên chiếc cân công bằng và ngay thẳng thì chúng ta sẽ thấy rằng luật đa thê của Islam bắt buộc người chồng phải bảo vệ, chăm sóc, chu cấp và nuôi dưỡng cho những phụ nữ của y là đúng, là tốt đẹp và hợp lý hơn rất nhiều so với vấn đề mãi dâm ở phương tây, nơi đã cho phép một người đàn ông lấy một người phụ nữ chỉ để thỏa mãn nhu cầu dục tình rồi sau đó y có thể ra ngoài đường tùy thích rao giảng về cách làm tình với cô ta.
3- Nữ đông phương học Francoise Sagan nói: Này hỡi phụ nữ phương đông! Quả thật, những người gọi tên bạn và mời gọi bạn đến với sự bình đẳng như đàn ông là họ đang cười nhạo bạn đấy, quả thật, họ đã cười nhạo chúng tôi trước đây về điều đó.
4- Giáo sư Von Hermer nói: Việc mặc áo choàng che toàn thân là một phương tiện bảo về và gìn giữ phụ nữ tránh khỏi sự thèm muốn bất thường của đàn ông và đảm bảo cho họ luôn được tôn vinh và quý trọng.
* * *
Triết gia George Bernard Shaw nói: Tôi thực sự ngưỡng mộ tôn giáo của Muhammad về khả năng tồn tại lâu dài thật đáng kinh ngạc của nó. Đối với tôi, dường như đó là tôn giáo duy nhất có một nặng lượng vô cùng to lớn khiến nó luôn phù hợp và thích nghi với sự thay đổi của cuộc sống, và luôn là điều tốt đẹp cho mọi thời đại. Quả thật, tôi đã học qua về cuộc đời của người đàn ông phi thường này, và theo ý kiến của tôi thì ông ta nên được mệnh danh là vị cưu thế của nhân loại chứ không phải là kẻ thù của Giê-su (Nabi Ysa), và tôi tin rằng nếu để một người giống như ông ta lãnh đạo thế giới hiện đại này thì chắc chắn ông ta sẽ gặt hái được thành tựu trong việc giải quyết và xử trí mọi vấn đề theo những đường lối mang lại niềm hạnh phúc và an lành cho những ai tha thiết cần đến hai điều đó.
Quả thật, theo dự đoán của tôi, trong tương lai chắc chắn những người châu Âu sẽ đón nhận tôn giáo của Muhammad, và thực tế ngày nay, ở châu Âu đã bắt đầu có sự đón nhận này.
* * *
Ắt hẳn có không ít người sống tại Hoa Kỳ đang tìm kiếm những con đường mới lạ, có thể là con đường Islam, hoặc là con đường đạo Thiên Chúa, hay là con đường của đạo Phật, và cũng có thể là con đường của Ấn độ giáo. Và hầu hết những người Mỹ đều ý thức được rằng họ luôn cần đến một vị Thượng Đế, tuy nhiên, lại có rất ít người Muslim đang sống ở Mỹ biết đứng lên tuyên bố rằng Islam là con đường đến với Thượng Đế Allah .. con đường mà Ngài đã lựa chọn cho chúng ta:
1- Quả thật, lúc ban đầu tôi đã từng quan tâm rất nhiều đến đạo Phật, qua nhiều năm, tôi đã thực sự muốn trở thành một vị sư (người tu hành theo đạo Phật). Tuy nhiên, sau khóa học nghiên cứu về các tôn giáo trong trường Đại học, tôi đã hướng đến đạo Islam. Sau khi tốt nghiệp Đại học, tôi đã sang châu Âu và học tại Hà Lan, ở đây tôi đã quen được hai người bạn, một người là sinh viên mang quốc tịch Jordan, và một người nữa đã lớn tuổi và có địa vị nhất định trong xã hội, anh là người Albania, anh sống ở xứ sở Hà Lan hơn ba mươi hay bốn mươi năm gì đó nhưng vẫn tận tụy cả đời mình cho Allah. Và với sự ảnh hưởng của hai người bạn này tôi đã vào Islam.
Không phải là sự thích thú về vẻ đẹp, sự tinh khiết, hay tính thiết thực của tốn giáo này, mà là do không thể chối cãi được vì Muhammad e đích thực là vị Sứ giả của Allah và nếu như tôi phủ nhận bức thông điệp của Allah và Sứ giả của Ngài thì chắc chắn Allah sẽ phủ nhận tôi.
2- Quả thật, tôi đã trải qua năm năm, một phần thời gian ở Mỹ và một phần ở trong thế giới Ả rập, và tôi đã đi đến kết luận rằng tôi thực sự yêu thương Islam và quí trọng nó vô cùng, và tôi đã khẳng định đây chính là tôn giáo đã tô điểm cho cuộc sống con người và làm cho nó thiêng liêng và phúc lành.
Tuy nhiên, quả là một thảm kịch khi tôi nhìn thấy những cộng đồng và xã hội Islam đã để mất đi lòng tin cậy vào Islam. Nhiều người dân và nhà nước của những cộng đồng và xã hội đó đã cố gắng bắt chước theo Mỹ và thế giới châu Âu trong thời điểm mà chính bản thân người Mỹ và thế giới châu Âu đang chán ngán với lề lối, tư tưởng và cơ cấu tổ chức của họ.
Và quả thật, hàng triệu và hàng triệu người trong thế giới Ả rập nhìn vào nước Mỹ để mong có được đường lối cũng như chỉ đạo đúng đắn trong khi hàng triệu và hàng triệu người dân Mỹ lại nhận thấy rằng nưới Mỹ của họ đang càng ngày càng trở nên có nhiều tồi tệ hơn, và dự kiến là sẽ có nhiều người trong số họ hủy hoại đất nước này trong tương lai gần.
3- Còn đối với những người Mỹ Muslim thì một phần trong số họ tin tưởng Islam bằng đức tin mãnh liệt và đặc biệt là đối với những người mới gia nhập Islam (Những Muslim mới), tuy nhiên, chúng tôi cần phải hiểu biết thêm bởi lẽ không hiểu biết về Islam có thể khiến chúng tôi thực hành không có giá trị và có thể dẫn đến những điều nguy hại hơn và rồi điều đó cũng chỉ là một sự mang danh nghĩa của Islam. Và cũng có phần nhỏ người dân Mỹ Muslim hiểu biết và biết cách hướng dẫn và chỉ đạo anh em của họ, và một phần rất nhỏ những người Muslim từ các tổ chức Islam đã thực hành theo Islam mang Islam sang Mỹ để rao truyền cũng như chấn chỉnh lại Islam cho đúng với nền tảng căn bản của nó.
Nhưng nhìn chung, các tổ chức cũng như cồng đồng Islam trên thế giới thực chất là chưa làm tròn bổn phận của mình, và rất nhiều người Muslim được hướng dẫn đúng đắn không đến Mỹ để rao truyền con đường chân lý của Allah.
4- Cuối lời, tôi mong rằng trong những mười năm tới hay trong khoảng thời gian tới tất cả những sinh viên Mỹ có thể học hỏi và làm theo nền văn hóa của Islam, và tôi cũng mong rằng chúng sẽ tìm thấy một vị lãnh đạo hùng mạnh biết kính sợ và qui phục Allah để chúng có cuộc sống hạnh phúc và an lành.
وَالْحَمْدُ لِلهِ رَبِّ العَالَمِيْنَ
Islam là con đường duy nhất cứu rỗi nhân loại:
Hajar là tên mới của Yamila, một phụ nữ người Mỹ, hai mươi tám tuổi, sinh viên khoa xã hội học của trường Đại Học Missouri – Columbia. Bắt đầu cách đây hai năm, cô đã học và nghiên cứu rất sâu về Islam vì muốn tìm hiểu sự thật mà bấy lâu nay cô đã rất quan tâm, và cô ta đã tìm thấy sự thật điều mà cô ta không tìm thấy trong văn hóa vật chất của Mỹ. Và sau hai năm nghiên cứu và tìm hiểu cũng như đánh giá và nhận xét thấu đáo về tôn giáo Islam, Yamila đã tuyên bố gia nhập Islam và đổi tên là Hajar. Cô nói: Hajar là cái tên yêu quý đối với tôi vì nó đã gắn kết tôi với Islam.
Cô Hajar tâm sự: Đã từ lâu, trong tâm trí tôi luôn tồn tại những câu hỏi về vũ trụ, về sự tồn tại cũng như sự sống, và quả thật, nó đã trở thành nguồn động lực thôi thúc tôi đi tìm hiểu và suy ngẫm về những giải đáp cho những câu hỏi triết học này. Nhưng vô ích, tôi không tìm thấy lời giải thích thỏa đáng và thuyết phục nào trong suốt thời gian học hỏi và nghiên cứu của tôi về văn hóa vật chất Mỹ. Thật tình tôi có nghe về Islam nhưng hình ảnh của nó trong tôi còn rất mơ hồ, vả lại nó còn bị bóp méo và xuyên tạc nữa, nào là tôn giáo phân biệt nam nữ, tôn giáo chỉ dựa trên bạo lực và tàn ác và tôi vẫn cứ không biết gì về sự thật của Islam cho đến khi tôi bắt đầu nhận ra sự tinh khiết và trong sạch của Islam và sự thử thách mạnh mẽ của vật chất, tôi mới bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu về Islam. Và trong thời gian đầu, việc nghiên cứu và tìm hiểu gặp rất nhiều khó khăn, bởi không có một cuốn sách nào đáng tin cậy nói về Islam bằng tiếng Anh cả, tuy nhiên, ngay từ đầu tôi đã có cảm giác yêu mến Islam vì nó là một tôn giáo công bằng và ngay thẳng, nó cho cá nhân quyền tự do, và mỗi cá nhân phải gánh chịu trách nhiệm cho mọi công việc và hành động của mình. Và như vậy, theo thời gian tôi càng ngày càng nhận thức và thấu hiểu được Islam, và thế là Allah đã hướng dẫn tôi đến với Islam.
Hajar tuyên truyền tôn giáo Islam
Và kể từ khi Hajar tuyên bố gia nhập Islam thì cô làm việc chăm chỉ và tích cực rao truyền tôn giáo Islam. Cô cho rằng sự tuyên truyền của cô bây giờ là đấu tranh cho con đường Islam và truyền tải thông điệp đến những người Mỹ không hiểu biết gì về chân lý Islam rằng những hình ảnh méo mó đó của Islam là do những kẻ thù của nó đã có ý xấu bôi nhọa.
Quả thật, Hajar đã thay đổi thành một người Islam toàn diện. Từ một cô gái Mỹ sống cuộc sống buông thả và lơ đễnh biến thành một phụ nữ ngoan đạo luôn thực hành theo đúng phép tắc và qui định của Islam như cô đã nói: Mục tiêu tên của tôi là đấu tranh cho con đường Islam, chống lại chủ nghĩa tư bản, chế độ độc tài, những điều gian ác và xấu xa. Bởi lẽ đó, sau khi thực nghiệm tôi thấy rằng Islam là con đường duy nhất cứu rỗi nhân loại thoát khỏi chiến tranh, nạn đói và đau khổ.
Và khi Hajar được hỏi rằng tại sao Islam mới là con đường cứu rỗi cho nhân loại? Cô trả lời rằng, quả thật, Islam là tôn giao duy nhất cho chúng ta các giải pháp để xây dựng và thiết lập xã hội, chính trí đương đại. Nó là một hệ thống nguyên tắc toàn diện giúp cân đối giữa nhu cầu tinh thần và nhu cầu của cơ thể mà không mang lại bất kỳ tổn hại nào. Và quả thật, tôi đã tìm thấy trong nó câu giải đáp thỏa đáng và thuyết phục cho các câu hỏi triết học đã làm trăn trở và bất an.
Và lúc cô Hajar nói chuyện về Islam bạn sẽ cảm nhận được sự chân thật trong lời nói của cô và hiểu được những gì cô nói, thỉnh thoảng trong lúc nói cô lại dùng những câu nói Islam bằng tiếng Ả rập, nhưng dù như thế nào, điều hơn hết là cô đã thấu hiểu rằng Islam là một tôn giáo với một hệ thống phép tắc toàn diện chứ không chỉ là tôn giáo của hành vị thờ cúng.
Việc đấu tranh cho con đường Islam theo cô là điều quan trọng hơn hết trong Islam, hay nói cách khác, điều quan trong hơn cả mà những người Muslim cần nên làm trong thời điểm hiện nay. Và kể từ khi vào Islam, Hajar đã thay đổi cách sống của cô, cô ăn mặc quân áo theo đúng giáo luật, thi hành các bổn phận dâng lễ nguyện Salah theo đúng giờ giấc của chúng, và đặc biệt nỗ lực hết mình học thuộc lòng những câu kinh Qur'an để có thể dâng lễ nguyện Salah.
Và một điều hiển nhiên là chắc chắn cô sẽ gặp khó khăn và trở ngại rất lớn với gia đình và bạn bè của cô, tuy nhiên, Hajar, một người phụ nữ Muslim, như cô đã nói: Tôi vui vẻ đối mặt với những khó khăn vì con đường tín ngưỡng của tôi, và đây chính là giá trị đối với những người Muslim nam và nữ. Và quả thật, trước kia những người Muslim đã bị nhiều sự đàn áp và hành hạ nhưng họ không hề thay đổi đức tin của họ, và tôi vẫn mãi quan tâm đến Islam mà thôi.
Hajar không chỉ tích cực về mặt tôn giao mà cô còn tích cực hoạt động về mặt chính trị, cô luôn bảo vệ và ủng hộ quyền lợi công bằng của người dân Muslim Palestine, vì vậy, cô luôn luôn thuyết giảng và nói về những bất công đang xảy ra cho người dân Palestine.
Cô đích thực là một hiện tượng độc đáo, một cô gái Mỹ da trắng trở thành một nữ thuyết giảng về Islam, cô luôn lên tiếng bảo vệ mọi vấn đề của người dân trong cộng đồng Islam, dù không được chú ý nhưng cô vẫn không nản chí và mệt mỏi.
Và cô đã nhắn gửi đến toàn thể người dân của cộng đồng Islam nói chung và người dân Muslim Ả rập nói riêng rằng các bạn là những người soi sáng cho đường đi của nhân loại, cho nên các bạn đừng cảm thấy hèn yếu trong đất của mình trong việc chống lại quân xâm lược, Israel hay các đồng minh của chúng.
* * *
Tờ báo Almadinah Almunawwarah ra ngày 5 tháng Ramadan năm 1400 Hijr (niên lịch Islam) có đăng một câu chuyện về một người ca sĩ tầm cỡ quốc tế gia nhập Islam, Cat Stevens, anh đã tự đặt tên cho mình là Yusuf Islam sau khi vào Islam. Và trong mục tường thuật lại câu chuyện này có nêu một số lời phát biểu quan trọng và hữu ích, chúng tôi xin được nhắc một số lời tiêu biểu:
1- Phương Tây cảm thấy sốc khi tôi ngừng ca hát kể từ khi tôi cải đạo sang Islam. Họ bắt đầu hỏi nhau tại sao tôi lại thay đổi? Và tất cả các phương tiện truyền thông đều im lặng, tất cả hầu như hoàn toàn bặt tin về tôi, và phía sau tôi không còn nhìn thấy bóng dáng của những người hổn hển chạy theo nữa, bởi lẽ tất các phương tiện truyền thông ở phương Tây đều do người Do thái quản lý, họ có tất cả mọi chiếc chìa khóa.
2- Lý do tôi cải đạo sang Islam là bởi một lần tôi đi thăm người anh (em) của tôi ở Masjid Aqsa, tôi được tặng một món quà đó là hai quyển kinh Qur'an, một bản tiếng Ả rập và một bản bằng tiếng Anh, họ mong tôi nhận thức được chân lý của thiên đạo. Thế là, tôi đã một mình đọc Qur'an cho tới khi hoàn tất toàn bộ khóa học tìm hiểu và nghiên cứu về nó. Sau đó, tôi tìm hiểu và nghiên cứu về cuộc đời của Thiên sứ e và tôi đã thực sự bị tác động bởi bản chất và nhân cách vĩ đại của Người. Và sau một năm rưỡi tìm hiểu tôi thật sự bị thuyết phục bởi sự thiêng liêng và vĩ đại của Islam. Nó thật sự là một tôn giáo đầy chân lý và tôi đã tạ ơn và tán dương Allah đã cho tôi tin Islam trước khi tôi gặp người Muslim, và trước khi tôi hiểu biết về sự cai trị và lãnh đạo của họ.
3- Tôi đến Jerusalem, và tất cả mọi người Muslim ở thánh đường Al-Aqsa đã rất đỗi vui mừng vì tôi, và tôi đã khóc, và tôi đã dâng lễ nguyện Salah ở đó. Và Jerusalem là trái tim của thế giới Islam, cho nên, nếu trái tim này bị bệnh thì dĩ nhiên tất cả thế giới Islam đều bị bệnh, và nếu nó được chữa lành bệnh thì toàn cơ thể sẽ lành bệnh theo. Do đó, chúng ta phải giải phóng trái tim này bằng cái tên Islam.
4- Người dân Palestine có bổn phận phải nắm chặt tôn giáo Islam của họ, phải giữ gìn lễ nguyện Salah, và tôi chắc chắn rằng Allah sẽ giúp họ giành thắng lợi.
5- Họ bảo tôi sau khi tôi vào Islam: Hút thuốc lá là Haram (không được phép) thế là tôi không hút nữa, tôi đã bỏ rượu, không tìm thú vui trai gái nữa, và tôi đã từ bỏ ca hát cũng như âm nhạc.
6- Tôi đã chọn một người vợ Muslim ăn mặc kín đáo, bởi vì sắc đẹp ở người phụ nữ không phải là thứ quan trọng nhất mà là đức tin và ân phúc trong Islam.
7- Hiện tôi đang học tiếng Ả rập, tôi muốn đọc xướng Qur'an, tôi muốn cảm nhận và nếm sự ngọt ngào cùng với ý nghĩa của nó. Tôi sẽ dùng các cuốn sách nói về sự thiêng liêng và vĩ đại của Islam cùng với tiếng tâm của mình cho việc truyền bá tôn giáo Islam.
8- Tôi tin tưởng và thừa nhận rằng dâng lễ nguyện Salah vào đúng giờ giấc của nó là trụ cột quan trọng nhất trong các trụ cột của Islam, và sự gìn giữ và duy trì nó là một pháo đài lớn nhất của một người cho Islam của y, và tôi thật sự cảm thấy thanh thản và yên bình một cách kỳ lạ sau mỗi lần dâng lễ nguyện Salah.
* * *
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَمِنَ ٱلنَّاسِ مَن يَشۡتَرِي لَهۡوَ ٱلۡحَدِيثِ لِيُضِلَّ عَن سَبِيلِ ٱللَّهِ بِغَيۡرِ عِلۡمٖ وَيَتَّخِذَهَا هُزُوًاۚ ﮊ (سورة لقمان: 6)
{Và trong thiên hạ, có những người mua những lời nói nhảm nhí làm thú tiêu khiển hầu lôi cuốn và mê hoặc những ai không hiểu biết lạc khỏi con đường Chân lý của Allah} (Chương 31 – Luqman, câu 6).
Và hầu hết các nhà học giả Tafseer đều giải thích ý nghĩa của (Những lời nói nhảm nhí) là lời ca tiếng hát, và Ibnu Mas-ud cũng nói: Đó là ca hát.
Học giả Alhasan Albasri nói: Câu kinh này được phán xuống nói về sự ca hát và kèn, sáo.
2- Allah, Đấng Tối Cao phán bảo Shaytan:
ﮋوَٱسۡتَفۡزِزۡ مَنِ ٱسۡتَطَعۡتَ مِنۡهُم بِصَوۡتِكَ ﮊ (سورة الإسراء: 64)
{Tùy khả năng của ngươi, hãy lôi cuốn và cám dỗ những ai trong bọn chúng bằng cách dùng âm thanh quyến rũ của ngươi!} (Chương 17 – Al-Isra, câu 64). “Bằng cách dùng âm thanh quyến rũ" được dịch giải là lời ca và tiếng nhạc.
3- Nabi Muhammad e có di huấn:
« لَيَكُونَنَّ مِنْ أُمَّتِى أَقْوَامٌ يَسْتَحِلُّونَ الْحِرَ وَالْحَرِيرَ وَالْخَمْرَ وَالْمَعَازِفَ » (رواه البخاري)
“Rồi đây trong số tín đồ của ta sẽ có một số nhóm người cho rằng Zina, tơ lụa (cho đàn ông), rượu và nhạc cụ là Halal (được phép)". (Albukhari)
Ý nghĩa lời di huấn: Sau này, sẽ có số nhóm người Muslim cho rằng làm điều Zina (quan hệ nam nữ không nằm trong hôn nhân), đàn ông mặc tơ lụa, uống rượu và âm nhạc đều là Halal tức không bị cấm đoán trong Islam trong khi tất những thứ đó đều là Haram (không được phép). Nhạc cụ là những gì được dùng để tạo ra âm điệu làm nền cho lời ca tiếng hát như ống sáo, kèn, trống, đàn, piano, ... kể cả chuông bởi Nabi Muhammad e có nói:
« الْجَرَسُ مَزَامِيرُ الشَّيْطَانِ » (رواه مسلم)
“Chuông là tiếng kèn, sáo của Shaytan" (Muslim).
Và Hadith ám chỉ âm thanh phát ra từ chuông là điều không được ưa thích. Chuông thường được dùng đeo vào cổ con vật nuôi và âm thanh nó của như tiếng của cồng, chiêng, và chuông được những người Thiên chúa giáo hay dùng, và có thể dùng chuông để tạo ra âm thanh của chim sơn ca.
Islam không hề ngăn cấm bất kỳ điều gì ngoại trừ điều đó có hại. Và ca hát cũng như âm nhạc mang lại nhiều tác hại, Sheikhul – Islam Ibnu Taymiyah đã nói về điều đó như sau:
1- Tiếng nhạc là chất gây say cho tinh thần và tâm hồn của con ngươi, nó còn nghiêm trọng hơn cả uống rượu. Khi bị say bởi những tiếng nhạc và âm thanh, con người dễ dàng làm điều Shirk và hướng tới những điều xấu và gian ác, họ có thể giết người, làm điều Zina. Đây là những việc làm thường xảy ra đối với những người nghe nhạc và ca hát.
2- Riêng đối với điều Shirk thì hầu như họ đều dính vào bởi lẽ họ yêu mến và đam mê những thần tượng (những ca sĩ, nhạc sĩ) giống như họ yêu thương Allah.
3- Đối với điều xấu thì ca hát và âm nhạc là phương tiện đưa lối đến với Zina. Ca hát và âm nhạc sẽ khiến nam nữ, đàn ông đàn bà tự do đến với nhau một cách thác loạn và đồi bại. Ca hát và âm nhạc sẽ làm con người chìm đắm mê muội, khiến họ dễ dàng buông thả bản thân vào con đường dâm loạn, điên cuồng trong men rượu, chất kích thích hoặc hơn thế nữa.
4- Những người của giới ca hát và âm nhạc thường giết hại lẫn nhau, người nay thù hận ngươi kia, ngươi kia ghen tị người nọ, bởi lẽ Shaytan đang ở cùng với họ nên người nào mà Shaytan mạnh hơn thì sẽ giết hại người yếu hơn.
5- Nghe nhạc, ca hát sẽ không mang lại ích lợi hay cải thiện được gì cho tâm hồn ngoại trừ khiến nó thêm lệch lạc và suy đồi. Nó như là một thứ gây hại tinh thần còn rượu làm hại thể xác, do đó, người làm bạn với nó sẽ điên cuồng hơn sự say sưa của rượu. Bởi lẽ đó, họ tìm thấy ở nó sự ngon ngọt giống như những kẻ uống rượu hoặc hơn thế nữa.
6- Quả thật, những tên Shaytan đã nhập vào họ, chúng mang lửa vào trong người họ, một số người bị chúng lấy cây sắt được nung đỏ để lên người hoặc bỏ vào trong miệng hoặc những hình thức tương tự. Tuy nhiên, những thứ đó không thể xảy ra với họ khi họ dâng lễ nguyện Salah và đọc Qur'an, bởi lẽ, đây là những hình thức thờ phượng đầy đức tin của Nabi Muhammad e chống lại Shaytan.
Và đó là những điều thờ phượng Bid-ah, Shirk, của những tên Shaytan.
Quả thật, Thiên sứ Muhammad e và tất cả các vị Sahabah chưa từng biết đến việc làm này. Và dĩ nhiên nếu việc này tốt đẹp thì chắc chắc họ đã tiên phong trước chúng ta. Thật ra, đây là việc làm của những người lệch lạc Su-fi và những người Bid-ah (đổi mới và cải biên). Quả thật, tôi đã từng nhìn thấy họ tụ tập trong Masjid (thánh đường), bên cạnh họ là những cái trống lục lạc([16]), họ vừa đánh vừa ca hát với lời: Hãy đưa cho tôi một ly rượu,Và hãy rót cho chúng tôi vào những cái cốc chứa (rượu).
Họ không hề biết xấu hổ và e ngại mà thản nhiên nhắc đến rượu và những cái cốc chứa, những thứ bị cấm đoán, ngay trong ngôi nhà của Allah. Họ cùng nhau đánh trống lục lạc rất hăng say, và họ cầu xin phúc lành đến thần linh khác ngoài Allah một cách trắng trợn và lộ liễu: Ơi ông tổ! Hỡi ông tổ! Cho đến khi những tên Shaytan nhập vào họ, rồi một người trong bọn họ bắt đầu cởi bỏ áo, lấy cái xiên đâm vào bụng, sau đó, một người khác đứng dậy lấy một miếng thủy tinh đập vỡ nó rồi dùng răng cắn, ngoạm những mảnh vỡ thủy tinh đó và tự nói với chính mình: Nếu đúng như lời ngươi nói thì hãy giết người Do thái đã xâm chiếm lãnh thổ của chúng ta, hãy giết hết con cháu của chúng... Và những việc làm tương tự như thế này được Shaytan ủng hộ, bởi họ đã không tụng niệm và tưởng nhớ đến Allah, họ mặc nhiên tổ hợp cùng với Allah với những tổ tiên của họ. Và điều này đã được xác nhận qua lời phán của Allah, Đấng Tối Cao:
ﮋوَمَن يَعۡشُ عَن ذِكۡرِ ٱلرَّحۡمَٰنِ نُقَيِّضۡ لَهُۥ شَيۡطَٰنٗا فَهُوَ لَهُۥ قَرِينٞ ٣٦ وَإِنَّهُمۡ لَيَصُدُّونَهُمۡ عَنِ ٱلسَّبِيلِ وَيَحۡسَبُونَ أَنَّهُم مُّهۡتَدُونَ ٣٧ ﮊ (سورة الزخرف: 36 ،37)
{Và ai nhắm mắt làm ngơ trước Lời Nhắc nhở của Đấng Nhân từ (Allah), TA sẽ chỉ định một tên Shaytan làm bạn đời với y. Và quả thật, chúng (những tên Shaytan) sẽ tìm cách cản trở khiến họ rời xa con đường của Allah trong lúc họ cứ tưởng họ đang được hướng dẫn đúng đường} (Chương 43 – Az-Zukhruf, câu 36, 37).
Và Allah, Đấng Tối Cao đã khiến Shaytan đến quấy nhiễu họ làm họ thêm lầm lạc, Ngài phán:
ﮋقُلۡ مَن كَانَ فِي ٱلضَّلَٰلَةِ فَلۡيَمۡدُدۡ لَهُ ٱلرَّحۡمَٰنُ مَدًّاۚ ﮊ (سورة مريم: 75)
{Hãy bảo chúng: “Ai sống trong lầm lạc thì Đấng Nhân từ sẽ kéo dài thời gian cho họ (để họ lún sâu hơn trong sự lầm lạc để họ phải chịu mức trừng phạt nặng nề ở Ngày sau)} (Chương 19 – Maryam, câu 75).
Và không gì lạ khi chúng được những tên Shaytan ủng hộ và giúp đỡ. Quả thật, Nabi Sulayman u từng yêu cầu quân của Người từ loại Jinn đi lấy Ngai vương của một vị Nữ Hoàng về cho Người thì lúc đó, 'Ifri-t, một tên trong hàng ngũ của loài Jinn lên tiếng:
ﮋأَنَا۠ ءَاتِيكَ بِهِۦ قَبۡلَ أَن تَقُومَ مِن مَّقَامِكَۖ وَإِنِّي عَلَيۡهِ لَقَوِيٌّ أَمِينٞﮊ (سورة النمل : 39)
{Hạ thần sẽ mang nó đến nạp cho bệ hạ ngay lập tức trước khi bệ hạ rời khỏi chỗ ngồi của bệ hạ. Quả thật, hạ thần có đủ sức mạnh và đáng tin cậy để làm việc đó.} (Chương 27 – An-Naml, câu 39).
Và những người đã du ngoạn đến xứ sở Ấn độ như Ibnu Bata-tah cùng với những người khác, họ đã chứng kiến những người Maju-s (những người thờ lửa) hầu hết thường dùng đến trống lục lạc tuy rằng họ không phải là những người Muslim!!!
Do đó, vấn đề ở đây không phải là sự tôn nghiêm hay thể hiện uy quyền gì cả, mà thực chất đó là những việc làm của những tên Shaytan đang tụ tập xung quanh tiếng nhạc và lời hát, bởi lẽ hầu như những người dựng lên việc đánh trống lục lạc thường là những người nghịch đạo, thậm chí họ còn làm những điều Shirk với Allah một cách công khai khi họ đã cầu xin phúc lành và sự phù hộ từ ông bà quá cố của họ. Vậy thử hỏi, làm sao họ có thể là những người bảo hộ tôn giáo, những người của sự tôn nghiêm? Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋأَلَآ إِنَّ أَوۡلِيَآءَ ٱللَّهِ لَا خَوۡفٌ عَلَيۡهِمۡ وَلَا هُمۡ يَحۡزَنُونَ ٦٢ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَكَانُواْ يَتَّقُونَ ٦٣ ﮊ (سورة يونس: 62، 63)
{Chẳng phải những người bảo hộ chân lý của Allah là những người sẽ không lo sợ và cũng sẽ không buồn phiền vì họ luôn tin tưởng và kính sợ Ngài} (Chương 10 – Yunus, câu 62, 63).
Như vậy, người bảo hộ chân lý của Allah là người tin tưởng Ngài và chỉ cầu xin sự phụ hộ từ Ngài duy nhất; còn người kính sợ Allah là người luôn tránh xa những điều nghịch lại mệnh lệnh của Ngài, đặc biệt là không bao giờ Shirk với Ngài. Và người như thế này, chắc chắn sự tôn nghiêm sẽ đến với y bởi sự thông cảm và yêu mến chứ không cần phải đòi hỏi hay thể hiện tiếng tâm trước thiên hạ.
Hầu hết ca hát ngày nay thường diễn ra ở các đám tiệc như đám cưới, tiệc ăn mừng, liên hoan, và trong các đài truyền hình, phát thanh. Những lời ca tiếng hát thường nói về tình yêu nam nữ và dục tình, nói về sự âu yếm, hôn hít, miêu tả những cảm xúc cũng như những điều liên quan đến giới tính, làm tác động đến sự ham muốn tình dục ở thanh thiếu niên, lôi cuốn chúng vào những thú vui không lành mạnh như quan hệ Zina và làm suy đồi phẩm hạnh và đạo đức của người Muslim.
Và nếu như ca hát hòa lẫn với tiếng nhạc bởi những ca sĩ nam nữ trà trộn với nhau thì đó là họ đang lấy trộm tiền bạc của dân chúng bằng cái tên nghệ thuật và rạp hát, họ đổ tiền vào châu Âu để mua những chiếc Piano, những chiếc ô tô xa xỉ, họ làm suy đồi phẩm cách đạo đức của dân chúng bằng những tiếng hát lời ca mượt mà lôi cuốn, những phim ảnh về sex. Nhiều thanh thiếu niên bị mê hoặc và họ đã yêu quý những ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên hơn cả Allah. Ngay cả có một phát thanh viên vào thời điểm xảy ra chiến tranh với người Do thái năm 1967, nhắn gởi đến quân lính ra trận: Hãy tiến lên phía trước, ca sĩ nổi tiếng thế này, thế này sẽ luôn ủng hộ và luôn cùng với các anh .. và cuộc chiến đó đã thất bại thảm hại trước những bọn xấu xa Do thái. Đáng lẽ phát thanh viên đó nên nói với họ rằng hãy tiến lên bởi Allah luôn cùng với các anh và phù hộ cho các anh.. Và trước cuộc chiến chống lại người Do thái năm 1967, một trong các cô ca sĩ nổi tiếng tuyên bố rằng buổi hòa nhạc hàng tháng của cô tại thủ đô Cairo sẽ được tổ chức tại Tel Aviv nếu như chúng chiến thắng, trong khi sau chiến tranh những người Do thái đứng trên bức tường than khóc tại Jerusalem tạ ơn Allah đã giúp họ giành chiến thắng.
Và ngay cả những bài hát tôn giáo cũng không tránh khỏi phạm vào những lời sàm bậy. Chúng ta hãy nghe lời sau đây: “Người ta nói rằng mỗi Nabi đều vì phẩm chức của riêng mình. Này Muhammad! Đây ngai vương hãy nhận lấy nó".
Và đây là lời sau cùng dối trá về Allah và Thiên sứ của Ngài.
* * *
Albara bin Malik t là một người có chất giọng tốt. Ông thường ngâm thơ cho Thiên sứ e nghe vào một số lần đi xa cùng Người, và khi ông ngâm thơ, giọng ông ngọt ngào như con gái. Thế là, Thiên sứ e dặn dò ông: “Hãy cẩn thận tránh xa phụ nữ", ông nói: thế là tôi nín không ngâm nữa. Học giả Hakim nói: Thiên sứ không thích để phụ nữ nghe tiếng của của ông. (Hadith xác thực do Hakim ghi lại và đồng thuận với ông là Azh-zhahabi).
Nếu như quả thật Thiên sứ e e sợ cho phụ nữ nghe tiếng ngân nga của người chăn lạc đà và những gì khác từ những lời ngâm thơ với chất giọng mượt mà thì thử hỏi phản ứng của Người sẽ thế nào trong thời đại của chúng ta khi Người nghe thấy những gì từ những nữ ca sĩ đồi trị, những phụ nữ có những kỹ năng trong nghệ thuật khiêu dâm và gợi dục qua những tiếng hát chứa đựng toàn những lời yêu đương thể xác, làm mê hoặc và hư hỏng những trái tim của thanh thiếu niên, khiến họ cởi bỏ quần áo che đậy những phần xấu hổ một cách trơ trẽn. Và đặc biệt, khi chúng ta so sánh những tiếng hát cùng với những tiếng nhạc làm mê hoặc đầu óc, khiến tinh thần say đắm thì chúng ta thấy nó thật sự giống như những gì mà rượu đã gây ra.
1- Vị Sahabah Ibnu Mas-ud t nói: Ca hát làm mọc lên đạo đức giả trong tâm hồn giống như nước làm mọc ra cỏ dại, còn tụng niệm làm mọc lên đức tin Iman trong tâm hồn giống như nước làm mọc ra rau quả.
2- Học giả Ibnu Qayyim nói: Người nào quen với ca hát thì trái tim của y sẽ trở nên hay giả dối nhưng y không hề hay biết, và nếu như y nhận thức được sự thực của đạo đức giả thì chắc chắn đã cho thấy nó trong trái tim của y. Bởi lẽ, quả thật trong trái tim của một người bề tôi sẽ tồn tại hai điều: sự yêu thích ca hát và sự yêu thích Qur'an, rồi cái này tống khứ cái kia. Do đó, chúng ta thấy Qur'an luôn là điều nặng nề đối với những người mê ca hát, và khi đọc Qur'an họ cảm thấy chán ngấy và nhạt nhẽo, họ không tìm thấy điều hữu ích nào cả, trái tim họ không hề rung cảm hay xao động, nhưng khi nghe ca hát thì họ phấn khích và hứng thú. Bởi vậy, chúng ta thấy họ yêu thích nghe ca hát hơn nghe Qur'an. Và thực sự chúng ta thấy rất ít những ai thích thú nghe ca hát và âm nhạc lại chuyên tâm giữ gìn lễ nguyện Salah một cách đầy đủ và đặc biệt là đối với việc dâng lễ nguyện Salah tập thể trong Masjid.
3- Học giả Ibnu 'Aqeel, một trong những học giả lớn của hệ Hana-bilah nói: Nếu người nữ ca sĩ là người phụ nữ được phép lấy làm vợ thì không được nghe cô ta. Điều luật này không có sự bất đồng giữa các học giả trong hệ Hana-bilah.
4- Học giả Ibnu Hazam nói: Người Muslim không được phép tìm thú vui bằng cách nghe tiếng ngân nga của phụ nữ.
1- Tránh xa việc nghe các chương trình ca nhạc từ đài Radio, truyền hình và những gì khác, đặc biệt nên tránh xa những ca nhạc có xen vào những hình ảnh các ca sĩ ăn mặc hở hang, khiêu dâm và gợi dục.
2- Kháng sinh mạnh nhất cho ca hát và âm nhạc là sự tụng niệm, tán dương Allah cũng như đọc Qur'an, và đặc biệt là nên đọc chương Baqarah bởi Nabi Muhammad e đã nói:
« إِنَّ الشَّيْطَانَ يَنْفِرُ مِنَ الْبَيْتِ الَّذِى تُقْرَأُ فِيهِ سُورَةُ الْبَقَرَةِ » (رواه مسلم)
“Quả thật, Shaytan sẽ bỏ chạy khỏi ngôi nhà có đọc Qur'an chương Albaqarah" (Muslim).
Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋيَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ قَدۡ جَآءَتۡكُم مَّوۡعِظَةٞ مِّن رَّبِّكُمۡ وَشِفَآءٞ لِّمَا فِي ٱلصُّدُورِ وَهُدٗى وَرَحۡمَةٞ لِّلۡمُؤۡمِنِينَ ٥٧ ﮊ (سورة يونس: 57)
{Hỡi nhân loại, quả thật, đã đến với các ngươi một lời khuyên bảo (Qur'an) từ Thượng Đế của các ngươi; nó là một phương thức chữa lành bệnh trong lòng của các ngươi; nó còn là một Chỉ đạo và hồng ân cho những người có đức tin } Chương 10 – Yunus, câu 57).
3- Đọc tiểu sử sự nghiệp Nabi của Thiên sứ e, những tấm gương đạo đức của Người cũng như của những vị Sahabah của Người.
1- Ca hát vào ngày đại lễ. Bằng chứng cho điều này là Hadith từ 'A-ishah rằng Thiên sứ của Allah e vào thăm bà và lúc đó ở cùng với bà là hai cô gái đang chơi trống (trong một lời dẫn khác thì nói hai cô gái đàng ca hát), ông Abu Bakar đã rầy la hai cô gái kia nhưng Người bảo: “Cứ mặc kệ họ, quả thật mỗi cộng đồng đều có ngày lễ của họ, và quả thật ngày hôm nay là ngày lễ của chúng ta" (Hadith do Albukhari ghi lại)
2- Ca hát cùng với đánh trống trong đám cưới để giúp vui và cổ vũ cho buổi tiệc, bằng chứng là lời di huấn của Thiên e sứ:
« فَصْلُ مَا بَيْنَ الحَلاَلِ وَالحَرَامِ ضَرْبُ الدُفِّ وَالصَوْتُ فِيْ النِكَاحِ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Sự khác biệt giữa Halal và Haram là đánh trống và tiếng hát trong tiệc cưới" (Hadith xác thức do Ahmad ghi lại).
3- Lời hát trong Islam vào những lúc lao động mục đích để giúp tinh thần hăng hái, và đặc biệt những lời hát có ý nguyện cầu. Quả thật, Thiên sứ e đã từng ngâm bài thơ của Ibnu Ruwa-hah để phấn khích tinh thần của những người đang đào chiến hào:
اللهمَّ لاَ عِيْشَ إِلَّا عِيْشُ الآخِرَةِ فاِغْفِرْ لأَنْصَارِ وَالمُحَاجِرِه
(Lạy Thượng Đế, không có đời sống nào ngoài đời sống của Ngày Sau. Xin Ngài hãy tha thứ cho người Ansar (người Islam thuộc cư dân Madinah) và người Muhajir (người Islam thuộc cư dân Makkah dời cứ đến Madinah)).
Nghe vậy, những người Ansar cùng với những người Muhajir ngâm đáp lại:
نَحْنُ الَّذِيْنَ بَايَعُوا مُحَمَّداً عَلَى الْجِهَادِ مَابَقَيْنَا أَبَدًا
(Chúng tôi là những người đã chọn Muhammad, để Người lãnh đạo chiến đấu cho thế giới mà chúng tôi được tồn tại mãi mãi).
Và khi Thiên sứ e cùng với các vị Sahabah đào đất, Người cũng đã ngâm bài thơ của Ibnu Ruwa-hah:
وَاللهِ لَوْ لاَ اللهَ مَااهْتَدَيْنَا وَلاَ صُمْنَا وَلاَ صَلَّيْنَا
فَأَنْزِلَنْ سَكِيْنَةً عَلَيْنَا وَثَبِّتْ الأَقْدَامَ إِنْ لاقيْنَا
وَالمُشْرِكُوْنَ قَدْ بَغُوا عَلَيْنَا إِذَا أَرَادُوا فِتْنَةً أَبينَا
(Thề bởi Allah, nếu không có Allah chúng con sẽ không được hướng dẫn, không biết nhịn chay cũng không dâng lễ nguyện Salah. Xin Ngài hãy làm vững lòng chúng con và hãy vững chắc những bước chân của chúng con trước kẻ thù. Quả thật, những người ngoại đạo thờ đa thần đã đàn áp chúng con, nếu họ muốn gây chiến thì chúng con không cự tuyệt)([17]) (Albukhari, Muslim).
4- Những bài hát nói về sự thờ phượng Allah duy nhất, hay nói về tình yêu Thiên sứ e cũng như ca ngợi về phẩm chất cao đẹp và vĩ đại của Người, hoặc những bài hát có nội dung khuyến khích tinh thần đấu tranh cho con đường của Allah, ca ngợi những phẩm chất đức hạnh của con người, hoặc những bài hát có nội dung kêu gọi tình hữu nghị, đoàn kết và tương trợ lẫn nhau giữa những người Muslim, hoặc những bài hát có nội dung xây dựng cộng đồng.
5- Về các nhạc cụ thì giáo luật chỉ cho phép dùng trống (chỉ đối với những loại trống không có gắn những gì làm kêu leng keng, còn những loại trống có tiếng kêu leng keng là không được dùng) vào các dịp đám cưới, tiệc cưới, vào hai ngày đại lễ, tuy nhiên, chỉ cho phép phụ nữ riêng đàn ông thì không được phép dùng, bởi Thiên sứ e và tất cả các vị Sahabah đã không ai dùng đến nó.
Và những người Sufi đã tự cho phép chính họ. Họ đã dùng trống trong lúc tụng niệm và họ cho đó là điều Sunnah nhưng thực chất đó là điều Bid'ah, và Thiên sứ e đã cảnh bảo về sự nguy hại của những điều Bid'ah như sau:
«وَإِيَّاكُمْ وَمُحْدَثَاتِ الأُمُورِ فَإِنَّ كُلَّ مُحْدَثَةٍ بِدْعَةٌ وَإِنَّ كُلَّ بِدْعَةٍ ضَلاَلَةٌ » (حديث صحيح رواه أحمد)
“Các người hãy coi chừng những điều đổi mới trong đạo bởi tất cả mọi điều đổi mới đều Bid'ah và mọi điều Bid'ah đều lệch lạc" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
1- Phụ nữ được phép ca hát và chơi trống vào ngày đại lễ, đám cưới như những Hadith được đề cập.
2- Đàn ông được phép ca hát với những bài hát có nội dung tốt lành theo Islam trong những lúc lao động và làm việc, nhưng không có nhạc.
3- Những bài hát có nội dung kêu gọi đến với giáo lý Tawhid trong thờ phượng Allah, khuyến khích tinh thần đấu tranh cho chính của Allah, ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của con người với điều kiện là không có âm nhạc.
4- Không được phép nghe tiếng hát của phụ nữ và thưởng thức giọng ca của họ.
5- Những bài hát có nội dung miêu tả sự quyến rủ và khiêu dâm của người phụ nữ là không được phép.
6- Không được phép nghe nhạc từ tất cả các loại nhạc cụ vì nó làm ảnh hưởng đến nhân cách và đạo đức như đã được nói.
* * *
Islam là tôn giáo kêu gọi toàn nhân loại thờ phượng duy nhất một mình Allah, và từ bỏ tất cả mọi sự thờ phượng những ai (vật) khác Ngài như những vị ngoan đạo, những vị hiền nhân, những thần linh được điêu khắc và chạm trổ thành những bức tượng...
Và sự kêu gọi này đã có từ thời xa xưa, rất lâu lắm rồi kể từ khi Allah cử phải những vị Thiên sứ mang lời hướng dẫn và chỉ đạo đến cho nhân loại. Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖﮊ (سورة النحل: 36)
{Và quả thật TA đã cử một Sứ giả đến cho mỗi cộng đồng với mệnh lệnh: “Hãy thờ phượng Allah và tránh xa Ta-ghut"} (Chương 16 – Annahl, câu 36).
(Ta-ghut là tất cả những gì được con người thờ phượng ngoài Allah).
Và quả thật trong Qur'an ở chương Nuh đã có đề cập đến các bức tượng điêu khắc, và đó là bằng chứng nói về việc con người đã từng điêu khắc và tạc tượng của những người ngoan đạo. Allah phán:
ﮋوَقَالُواْ لَا تَذَرُنَّ ءَالِهَتَكُمۡ وَلَا تَذَرُنَّ وَدّٗا وَلَا سُوَاعٗا وَلَا يَغُوثَ وَيَعُوقَ وَنَسۡرٗا وَقَدۡ أَضَلُّواْ كَثِيرٗاۖ ﮊ (سورة نوح: 23، 24)
{Chúng bảo: “Các người chớ từ bỏ các thần linh của các người và chớ bỏ các thần: Wadd, Suwa, Yaguth, Ya'uq và Nasr". Và quả thật, chúng đã dắt nhiều người lầm lạc} (Chương 71 – Nuh, câu 23, 24).
Theo Hadith do Albukhari ghi lại, sahabah Ibnu Abbas t nói về câu kinh trên: “Đây là các tên của những người ngoan đạo và hiền lương thuộc cộng đồng của Nuh u. Khi những người ngoan đạo và hiền lương này qua đời, Shaytan đến thì thào cám dỗ người dân của họ nên dựng lên những bức tượng của họ đặt ngay chỗ họ thường hay ngồi khi họ còn sống, rồi lấy tên của họ đặt cho các bức tượng. Lúc ban đầu, những bức tượng này chỉ là sự thể hiện của tấm lòng tưởng nhớ chớ chúng chưa được thờ phượng, nhưng sau đó, những thế hệ sau này dần dần chuyển sang thành thờ phượng chúng". Và đấy là câu chuyện cho chúng ta biết nguyên nhân khởi nguồn sự thờ phượng những thần linh khác ngoài Allah qua các bức tượng của những vị danh nhân tiếng tâm trong thiên hạ.
Rất nhiều người đã lầm tưởng rằng những bức tượng điêu khắc, đặc biệt là những hình ảnh được vẽ đã trở thành điều không cấm kỵ vì thời nay đã không có ai thờ cúng tranh vẽ cũng như các bức tượng điêu khắc cả. Và đây là tư tưởng sai lầm bởi nhiều khía cạnh:
1- Quả thật, việc thờ phượng các tranh ảnh và những bức tượng điêu khắc vẫn còn tồn tại trong thời đại ngày nay. Chẳng phải hình của Ysa (Giê-su) và mẹ của Người Maryam đã được thờ phượng trong các nhà thờ, thậm chí, họ còn cúi gập người thờ cúng trước cây thánh giá!!
Và còn có những bức tranh nghệ thuật về Ysa cũng như Maryam được bán với giá vô cùng đắt. Những bức tranh này được treo trong nhà để thờ phượng và tôn kính.
2- Những bức tượng điêu khắc về những nhân vật nổi tiếng ở tại các nước phát triển và hiện đại về công nghệ được trưng bày trước công chúng tại các khu có người qua lại như bức tượng của George Washington ở Hoa kỳ, bức tượng Napoleon ở Pháp, bức tượng Lenin và Stalin ở Nga, và những bức tượng của nhiều nhân vật khác được đặt tại các con đường để cho mọi người qua lại cúi đầu chào. Và những ý tưởng về những bức tượng đã lan đến các nước Ả rập Islam, họ đã bắt chước theo những người ngoại đạo, cũng dựng lên các bức tượng rồi đặt chúng trên các con đường. Và thật sự sẽ là điều tốt đẹp và có ý nghĩa hơn nếu như những số tiền này được dùng để xây cất các Masjid, các trường học, các bệnh viện, tổ chức từ thiện rồi đặt tên cho chúng bằng các tên của những danh nhân đó.
3- Quả thật, những bức tượng này sau một thời gian dài, chúng sẽ được mọi người cúi đầu để tôn kính rồi dần dần sẽ thờ phượng giống như những gì đã xảy ra ở châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ, và điều này cũng đã xảy ra trước họ ở cộng đồng của Nuh u, họ đã dựng lên các bức tượng của những người hiền lương để họ tôn kính rồi dần dần họ đã thờ phượng chúng.
4- Quả thật, Thiên sứ e đã ra lệnh bảo Ali Bin Abu Talib, Người nói:
«لاَ تَدَعَ تِمْثَالاً إِلاَّ طَمَسْتَهُ وَلاَ قَبْرًا مُشْرِفًا إِلاَّ سَوَّيْتَهُ» (رواه مسلم)
“Hãy phá bỏ hết các bức tượng và hãy làm bằng phẳng các mồ mả nhô cao" (Muslim).
* * *
Islam không bao giờ cấm đoán bất cứ điều gì trừ phi nó mang lại tai hại cho tôn giáo, đạo đức, tài sản, và những gì khác. Người Muslim đích thực là người luôn tuân phục mệnh lệnh của Allah và Thiên sứ của Ngài, cho dù không nhận thức được nguyên nhân và lý do.
Và những tai hại của tranh ảnh cũng như các bức tượng rất nhiều, tiêu biểu là những tai hại nghiêm trọng sau:
1- Đối Với tôn giáo và đức tin: Quả thật, chúng ta đã thấy rằng các tranh ảnh và tượng đã hủy hoại đức tin của nhiều người. Những người Thiên Chúa giáo đã thờ phượng ảnh của Nabi Ysa (Giê-su) và Maryam cùng với cây thánh giá, châu Âu và Nga thì thờ các tượng của các vị lãnh tụ lỗi lạc của họ, họ cúi đầu tôn kính và sùng bái, và một số nước Islam và Ả rập cũng bắt chước theo họ dựng lên các bức tượng của những nhà lãnh đạo tài ba và ngoan đạo của họ, rồi một số người Sufi đã đặt bức tranh, ảnh các vị Imam của họ trước mặt khi họ dâng lễ nguyện Salah để cầu xin từ những vị Imam đó lòng sùng kính, họ đã vẽ chân dung các vị Imam của họ, họ tụng niệm đến Allah nhưng lại trông cậy vào sự quan sát và theo dõi của những vị Imam đó trong khi chỉ có Allah mới có quyền năng đó.
Và những bức ảnh của các ca sĩ, nghệ sĩ được mọi người yêu thích, ngưỡng mộ và đi theo đường lối của họ. Họ chăm sóc và nâng niu các bức ảnh đó và treo chúng trong nhà một cách tôn kính và nễ phục. Cũng vì vậy, nên một phát thanh viên Ả rập đã nhắn gởi thông điệp đến các binh sĩ ra trận trong cuộc chiến chống người Do thái năm 1968, nói: Này hỡi các binh sĩ! Hãy tiến lên bởi nữ ca sĩ tên này, tên này.. luôn ủng hộ và cổ vũ cho các anh. Và đáng lẽ ra, lời nói này phải là: Hãy tiến lên vì Allah luôn ở cùng các anh, Ngài sẽ phù hộ cho các anh giành chiến thắng!
Và kết quả là một sự thất bại trong cuộc chiến đó, bởi Allah đã không phù hộ cho họ, và những ca sĩ, nghệ sĩ kia cũng chẳng giúp ích được gì, trái lại, họ chính là nguyên nhân của sự thất bại đó. Và ước gì, người Ả rập biết nhận thức mà rút ra từ sự thất bại kia bài học nhớ đời rằng họ phải quay trở về với Allah thì Ngài mới giúp họ giành được thắng lợi.
2- Còn đối với tai hại mà tranh ảnh và các bức tượng gây nên, đó là nó khiến thanh thiếu niên nam nữ trở nên thái quá, suy đồi nhân cách và đạo đức. Ta thấy nam nữ nói chuyện và quan hệ với một cách bình thường, trên các con đường, trong nhà đầy những bức ảnh chân dung của các ca sĩ, nghệ sĩ, đặc biệt những hình ảnh của các ca sĩ nữ với cách ăn mặc hở hang và lộ liễu, đã khiêu khích bản năng tình dục của các thanh niên khiến họ dễ dàng có những hành vi đồi bại, công khai hay lén lút, từ đó, làm cho họ trở nên biến chất và sa ngã, họ sẽ không còn tha thiết đến tôn giáo, không màng tới danh dự hay đấu tranh cho chính nghĩa của Allah.
Và những tranh ảnh đã lan rộng khắp mọi nơi một cách đáng sợ, đăc biệt những tranh ảnh khiêu dâm của những thiếu nữ, chúng xuất hiện trong sách báo, tạp chí, các kênh truyền hình, và đặc biệt trong các phim bộ tình cảm, rồi đối với những phim ảnh hoạt hình, con người đã làm biến dạng tạo hóa của Allah, bởi Allah đâu có tạo ra những cái mũi dài, những cái tai thật to hãy những con mắt thòi lòi giống như con người đã vẽ một cách bịa đặt, trái lại, Allah đã tạo hóa con người với hình dáng cân đối và hoàn mỹ.
3- Tranh ảnh và tượng điêu khắc làm mất mát nguồn tài chính, điều này rất rõ ràng không cần nói đến dẫn chứng. Chúng ta tốn rất nhiều nguồn tài chính, hàng ngàn, hàng triệu để tạo ra tranh ảnh và tượng để phục vụ cho con đường của Shaytan. Có rất nhiều người mua những tượng ngựa, lạc đà, voi, hay tượng người đem đặt trong nhà của họ, có người thì treo hình ảnh của gia đình trong nhà hoặc treo ảnh của cha mẹ đã qua đời. Họ đã chi tiêu không ít cho những thứ này, phải chi họ dùng những số tiền đó để bố thí cho người nghèo hoặc làm bố thí cho những người đã khuất thì hữu ích hơn. Còn chưa dừng lại đó, có người còn chụp cả cảnh vợ chồng trong ngày cưới để treo trong nhà hầu để mọi người chiêm ngưỡng giống như là vợ của họ không phải chỉ dành riêng cho họ mà cho cả thiên hạ vậy!!
Một số người cho rằng việc nghiêm cấm ở đây chỉ là nghiêm cấm tạo ra các bức tượng, một việc làm đã phổ biến ở thời kỳ ngu muội (trước Islam), chứ không nghiêm cấm tranh ảnh. Đây quả là một quan niệm kỳ lạ, chắc có lẽ những người này chưa đọc các bằng chứng giáo luật việc nghiêm cấm tranh ảnh. Sau đây là các bằng chứng giáo luật:
1- Bà 'A-ishah i có lần bà đã mua một chiếc gối (để ngồi dựa) có các hình vẽ. Khi nhìn thấy nó, Thiên sứ e đã không chịu vào mà đứng khựng lại ngay cánh cửa, nhìn mặt Người bà biết là Người không ưa thích nên bà đã hỏi: Thưa Thiên sứ của Allah, có phải em nên sám hối với Allah và Thiên sứ của Ngài chăng, có phải em phạm lỗi gì không? Thiên sứ e bảo:
« مَا بَالُ هَذِهِ النُّمْرُقَةِ » . قُلْتُ اشْتَرَيْتُهَا لَكَ لِتَقْعُدَ عَلَيْهَا وَتَوَسَّدَهَا . فَقَالَ رَسُولُ اللهِ - صلى الله عليه وسلم - « إِنَّ أَصْحَابَ هَذِهِ الصُّوَرِ يَوْمَ الْقِيَامَةِ يُعَذَّبُونَ ، فَيُقَالُ لَهُمْ أَحْيُوا مَا خَلَقْتُمْ ». وَقَالَ «إِنَّ الْبَيْتَ الَّذِى فِيهِ الصُّوَرُ لاَ تَدْخُلُهُ الْمَلاَئِكَةُ» (متفق عليه)
“Chiếc gối này là sao?" Bà 'A-ishah nói: Em mua nó để chàng ngồi và nghỉ ngơi. Người nói: “Quả thật, những người đã làm ra các hình vẽ này sẽ bị trừng phạt vào Ngày Sau và họ được bảo: Nào, các ngươi hãy ban sự sống cho những thứ mà các ngươi tạo ra đi!". Rồi sau đó, Người tiếp: “Quả thật, ngôi nhà nào có tranh ảnh trong đó thì các Thiên thần sẽ không bước vào". (Albukhari, Muslim).
2- Nabi Muhammad e nói:
« أَشَدُّ النَّاسِ عَذَابًا يَوْمَ الْقِيَامَةِ الَّذِينَ يُضَاهُونَ بِخَلْقِ اللهِ » (متفق عليه)
“Người bị trừng phạt nặng nhất vào Ngày Sau là những ai đã vẽ làm giống tạo vật của Allah" (Albukhari, Muslim).
3- Quả thật, Nabi e khi nhìn thấy trong nhà có hình vẽ thì Người sẽ không vào cho đến khi nào Người đã bôi xóa chúng đi. (Albukhari)
4- Nabi e cấm để tranh ảnh và các hình vẽ trong nhà và Người cấm không cho ai vẽ tranh ảnh. (Hadith tốt do Tirmizhi ghi lại).
5- Quả thật, hàng triệu và hàng triệu người Muslim đã luôn tưởng nhớ đến Thiên sự của họ và họ cũng luôn Salawat cho Người mà không cần có hình ảnh nào của Người. Và những hình ảnh được treo với mục đích kỷ niệm và tưởng nhớ rồi chúng cũng sẽ bị phai mờ và mất đi theo thời gian.
1- Giáo luật cho phép vẽ tranh ảnh, tạc tượng cây cối, sao, mặt trời, mặt trăng, núi non, đất đá, sông biển, phong cảnh, những địa điểm thiêng liêng như các tranh ảnh về ngôi đền Ka'bah, Madinah, Thánh đường Al'Aqsa ở Jerusalem và tất cả những địa điểm cũng như những sự vật không phải là con người và động vật.
Bằng chứng cho điều này là câu nói của Ibnu Abbas t: “Nếu ngươi thật sự muốn vẽ (hoặc tạc tượng) thì hãy vẽ (hoặc tạc tượng) cây cối và những gì không có linh hồn" (Albukhari).
2- Các hình ảnh được chụp để làm các thủ tục hồ sơ, giấy tờ cần thiết như để làm hộ chiếu, bằng lái xe tô tô, ...
3- Chụp hình và trưng bày các hình ảnh của những tội phạm giết người, cướp của cũng như trộm cắp để truy nã.
4- Cho phép con gái cũng như các bé gái chơi những con búp bê có hình dáng của những đứa trẻ nhỏ, mục đích để chúng học hỏi cách dạy con cái giúp ích chúng làm mẹ sau này. Bằng chứng là lời của bà 'A-ishah i: “Tôi đã từng chơi những con búp bê trong thời gian ở cùng với Nabi e " (Albukhari).
Không được phép mua các búp bê gái cho trẻ con, đặc biệt những con búp bê có hình của những cô thiếu nữ ăn mặc hở hang, bởi như vậy khiến chúng học theo và bắt chước và sau này sẽ gây nhiều điều xấu cho xã hội và cộng đồng, hơn nữa đây là cách chúng ta ủng hộ tài chính cho các nước không phải Islam và Do thái.
5- Tranh ảnh về người và động vật được phép khi nào không vẽ cái đầu bởi đầu là linh hồn, không có đầu thì linh hồn không tồn tại nữa mà sẽ giống như một vật vô tri. Và quả thật, Đại Thiên thần Jibril đã bảo Thiên sứ Muhammad về hình ảnh: “Hãy bỏ đi cái đầu!"
* * *
Trong thời của Thiên sứ e chưa có thuốc lá, tuy nhiên, Islam đã qui định những nguyên tắc chung chung để làm cơ sở căn cứ điều luật, và nguyên tắc chung của Islam là nghiêm cấm tất những gì có tác hại đến cơ thể, sức khỏe và tinh thần hoặc những gì làm phiền hà cũng như gây hại đến người xung quanh hoặc lảng phí tiền của và tài chính.
1- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَيُحِلُّ لَهُمُ ٱلطَّيِّبَٰتِ وَيُحَرِّمُ عَلَيۡهِمُ ٱلۡخَبَٰٓئِثَﮊ (سورة الأعراف: 157)
{Người (Muhammad) cho phép họ dùng thực phẩm tốt lành và cấm họ dùng những gì dơ bẩn và gây hại} (Chương 7 – Al-'Araf, câu 157).
(Thuốc lá thuộc những thứ dơ bẩn có hại vì nó gây hại đến sức khỏe và gây mùi hôi rất khó chịu).
2- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلَا تُلۡقُواْ بِأَيۡدِيكُمۡ إِلَى ٱلتَّهۡلُكَةِ ﮊ (سورة البقرة: 195)
{Và các ngươi chớ dùng tay của các ngươi đẩy các ngươi vào chỗ tự hủy} (Chương 2 – Albaqarah, câu 195).
(Thuốc lá là nguyên nhân của những căn bệnh gây chết người như ung thư, lao phổi, ..).
3- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلَا تَقۡتُلُوٓاْ أَنفُسَكُمۡۚ ﮊ (سورة النساء: 29)
{Và các ngươi đừng tự giết bản thân các ngươi} (Chương 4 – Annisa, câu 29).
(Thuốc lá là thứ giết mòn, giết dần cơ thể).
4- Allah, Đấng Tối Cao phán về tác hại của rượu:
ﮋوَإِثۡمُهُمَآ أَكۡبَرُ مِن نَّفۡعِهِمَاۗ ﮊ (سورة البقرة : 219)
{Và tác hại của chúng lớn hơn lợi ích của chúng} (Chương 2 – Albaqarah, câu 219).
(Tác hại của thuốc lá lớn hơn lợi ích của nó mang lại, nói đúng hơn thuốc lá chỉ toàn là có hại không lợi gì cả).
5- Allah, Đấng Tối Cao phán:
ﮋوَلَا تُبَذِّرۡ تَبۡذِيرًا ٢٦ إِنَّ ٱلۡمُبَذِّرِينَ كَانُوٓاْ إِخۡوَٰنَ ٱلشَّيَٰطِينِۖ ﮊ (سورة الإسراء: 26، 27)
{Và chớ đừng hoang phí quá mức. Quả thật, nhưng người phung phí là anh em của Shaytan} (Chương 17 – Al-Isra, câu 26, 27).
(Hút thuốc lá là một việc làm hoang phí tiền bạc).
6- Nabi Muhammad e nói:
« لاَ ضَرَرَ وَلاَ ضِرَارَ » (حديث صيحيح رواه أحمد)
“Đừng hại mình và hại người" (Hadith xác thực do Ahmad ghi lại).
(Thuốc lá gây hại cho người hút, làm phiền hà và gây hại cho người xung quanh, hao tốn tiền của).
7- Nabi Muhammad e nói:
« وَكَرِهَ اللهُ لَكُمْ إِضَاعَةِ المَالِ » (متفق عليه)
“Allah ghét các ngươi làm hao tốt tiền của" (Albukhari, Muslim).
(Hút thuốc lá là hành động làm hao tốn tiền của một cách hoang phí).
8- Nabi Muhammad e nói:
« إِنَّمَا مَثَلُ الْجَلِيسِ الصَّالِحِ وَالْجَلِيسِ السَّوْءِ كَحَامِلِ الْمِسْكِ وَنَافِخِ الْكِيرِ » (متفق عليه)
“Quả thật, hình ảnh của người đồng hành với điều tốt và người đồng hành với điều xấu giống như người mang trên mình chất thơm xạ hương và người mang trên người ống khói đen" (Albukhari, Muslim).
(Người hút thuốc là người đồng hành với điều xấu bởi y đang thổi lửa).
9- Nabi Muhammad e nói:
« وَمَنْ شَرِبَ سُمًّا فَقَتَلَ نَفْسَهُ فَهُوَ يَتَحَسَّاهُ فِى نَارِ جَهَنَّمَ خَالِدًا مُخَلَّدًا فِيهَا أَبَدًا » (رواه مسلم)
“Ai uống thuốc độc để kết liễu đời mình thì y sẽ phải nếm lửa trong Hỏa ngục đời đời kiếp kiếp" (Muslim).
(Trong thuốc lá có chất độc ni-cô-tin (nicotian), nó sẽ giết dần dần người hít phải nó).
10- Nabi Muhammad e nói:
« مَنْ أَكَلَ ثُومًا أَوْ بَصَلاً فَلْيَعْتَزِلْنَا - أَوْ قَالَ - فَلْيَعْتَزِلْ مَسْجِدَنَا وَلْيَقْعُدْ فِى بَيْتِهِ » (متفق عليه)
“Ai ăn tỏi hoặc hành thì đừng đến Masjid của ta mà hãy nên ngồi ở nhà" (Albukhari, Muslim).
(Thuốc lá có mui hôi khó chịu hơn cả mùi của hành và tỏi).
11- Đa số giới học giả cho rằng thuốc lá Haram, còn những ai không nói Haram bởi vì họ chưa biết đến tác hại do nó gây ra đó là căn bệnh ung thư.
12- Một người nào đó chỉ cần đốt một tờ giấy tiền nhỏ thôi thì chắc chắn chúng ta đã cho y là tên điên rồ, Haram làm thế. Vậy sẽ thế nào đối với những người bỏ biết bao nhiêu tiền bạc mua thuốc lá? Họ đốt tiền và làm hại bản thân cũng như làm hại những người xung quanh. Thử hỏi trong tôn giáo cho phép chúng ta dùng thuốc là gây phiền hà đến người khác sao, cho phép chúng dùng chất độc để phái hại hơi thở trong lành của họ sao? Hãy biết rằng việc làm ô nhiễm không khí cũng giống như việc làm ô nhiễm nguồn nước, một việc làm Haram.
Và nếu chúng ta hỏi những người hút thuốc lá đã đặt việc làm của họ trên chiếc cân của những việc làm tốt hãy trên chiếc cân của những việc làm xấu thì chắc chắn họ sẽ trả lời là họ đã đặt trên chiếc cân của những việc làm xấu.
13- Hãy cầu xin Allah phù hộ trong việc từ bỏ thuốc lá, bởi người nào từ bỏ một điều xấu vì Allah thì Allah sẽ giúp y thực hiện điều đó. Chúng ta phải kiên nhẫn bởi Allah luôn ở cùng với những người biết kiên nhẫn.
* * *
ﮋرَبَّنَآ ءَاتِنَا مِن لَّدُنكَ رَحۡمَةٗ وَهَيِّئۡ لَنَا مِنۡ أَمۡرِنَا رَشَدٗا ﮊ (سورة الكهف)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài hãy thương yêu chúng con và hãy sắp đặt công việc của chúng con được đúng đắn} (Chương 18 – Al-Kahf, câu 10).
ﮋرَبَّنَآ ءَاتِنَا فِي ٱلدُّنۡيَا حَسَنَةٗ وَفِي ٱلۡأٓخِرَةِ حَسَنَةٗ وَقِنَا عَذَابَ ٱلنَّارِﮊ (سورة البقرة: 201)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài hãy ban cho chúng con điều tốt đẹp trên thế gian và điều tốt đẹp ở Đời Sau} (Chương 2 – Albaqarah, câu 201).
ﮋرَبَّنَا لَا تُزِغۡ قُلُوبَنَا بَعۡدَ إِذۡ هَدَيۡتَنَا وَهَبۡ لَنَا مِن لَّدُنكَ رَحۡمَةًۚ إِنَّكَ أَنتَ ٱلۡوَهَّابُﮊ (سورة آل عمران: 8)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài đừng làm cho tấm lòng của chúng con nghiêng ngả và lạc hướng sau khi Ngài đã hướng dẫn chúng con, xin Ngài hãy ban cho chúng con hồng ân từ Ngài. Quả thật, Ngài là Đấng hằng ban bố} (Chương 3 – Ali-'Imran, câu 8).
ﮋرَبَّنَا ٱغۡفِرۡ لَنَا وَلِإِخۡوَٰنِنَا ٱلَّذِينَ سَبَقُونَا بِٱلۡإِيمَٰنِ وَلَا تَجۡعَلۡ فِي قُلُوبِنَا غِلّٗا لِّلَّذِينَ ءَامَنُواْ رَبَّنَآ إِنَّكَ رَءُوفٞ رَّحِيمٌﮊ (سورة الحشر: 10).
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài hãy tha thứ tội lỗi cho chúng con và những người anh em đã có đức tin trước chúng con, và xin Ngài chớ đặt trong lòng chúng con nỗi oán thù đối với những người đã tin tưởng. Quả thât, Ngài là Đấng rất mực nhân từ và khoan dung} (Chương 59 – Al-Hashr, câu 10).
ﮋرَّبَّنَا عَلَيۡكَ تَوَكَّلۡنَا وَإِلَيۡكَ أَنَبۡنَا وَإِلَيۡكَ ٱلۡمَصِيرُﮊ (سورة الممتحنة: 4)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, chúng con phó thác cho Ngài, sám hối với Ngài và chúng con sẽ trở lại gặp Ngài} (Chương 60 – Al-Mumtahinah, câu 4).
ﮋرَبَّنَا لَا تُؤَاخِذۡنَآ إِن نَّسِينَآ أَوۡ أَخۡطَأۡنَاۚ رَبَّنَا وَلَا تَحۡمِلۡ عَلَيۡنَآ إِصۡرٗا كَمَا حَمَلۡتَهُۥ عَلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِنَاۚ رَبَّنَا وَلَا تُحَمِّلۡنَا مَا لَا طَاقَةَ لَنَا بِهِۦۖ وَٱعۡفُ عَنَّا وَٱغۡفِرۡ لَنَا وَٱرۡحَمۡنَآۚ أَنتَ مَوۡلَىٰنَا فَٱنصُرۡنَا عَلَى ٱلۡقَوۡمِ ٱلۡكَٰفِرِينَﮊ (سورة البقرة: 286)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài đừng bắt tội chúng con nếu chúng con quên và sai sót. Lạy Thượng Đế, xin Ngài đừng bắt chúng vác gánh nặng giống như những gánh nặng mà Ngài đặt lên vai của những người trước chúng con. Lạy thượng Đế của chúng con, xin Ngài đừng bắt chúng con gánh vác nhiệm vụ quá khả năng của chúng con. Xin Ngài hãy lượng thứ và khoan hồng cho chúng con. Ngài là Đấng bảo hộ che chở cho chúng con, xin Ngài hãy phù hộ chúng con thắng những kẻ không có đức tin} (Chương 2 – Albaqarah, câu 286).
ﮋرَبَّنَا ٱفۡتَحۡ بَيۡنَنَا وَبَيۡنَ قَوۡمِنَا بِٱلۡحَقِّ وَأَنتَ خَيۡرُ ٱلۡفَٰتِحِينَﮊ (سورة الأعراف: 89)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài dùng chân lý mà quyết định giữa chúng con với người dân của chúng con bởi vì Ngài là Đấng quyết định ưu việt} (Chương 7 – Al-'Araf, câu 89).
ﮋرَبَّنَا لَا تَجۡعَلۡنَا فِتۡنَةٗ لِّلۡقَوۡمِ ٱلظَّٰلِمِينَ وَنَجِّنَا بِرَحۡمَتِكَ مِنَ ٱلۡقَوۡمِ ٱلۡكَٰفِرِينَﮊ (سورة يونس: 85، 86)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài đừng biến chúng con thành một phương tiện thử thách cho những kẻ làm ác và xin Ngài hãy lấy lòng khoan dung mà giải thoát chúng con ra khỏi đám người không tin tưởng} (Chương 10 – Yunus, câu 85, 86).
ﮋرَّبَّنَا ٱكۡشِفۡ عَنَّا ٱلۡعَذَابَ إِنَّا مُؤۡمِنُونَ ﮊ (سورة الدخان: 12)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài giải tỏa sự trừng phạt khỏi chúng con, chúng con thật sự là những người có đức tin} (Chương 44 – Ad-Dukhan, câu 12).
ﮋرَبَّنَآ أَفۡرِغۡ عَلَيۡنَا صَبۡرٗا وَتَوَفَّنَا مُسۡلِمِينَ ﮊ (سورة الأعراف: 126)
{Lạy Thượng Đế của chúng con, xin Ngài xối lên chúng con sự kiên trì và nhẫn nại và xin cho chúng con chết như một người Muslim (biết thần phục Ngài)} (Chương 7 – Al'Araf, câu 126).
dkf
)[1]( Đây là phần mở đầu mà Nabi e thường nói mỗi khi Người thuyết giảng và Người đã dạy nó cho các vị Sahabah.
([2]) Môn cờ ở giữa thế kỷ 17, dành cho hai người chơi, các quân cờ di chuyển được quyết định bằng cách ném một cặp xúc xắc. Các môn cờ và những trò chơi có hình thức tương tự (tức trò chơi có súc sắc) cũng mang điều luật như thế.
([3]) Du-a có nghĩa là sự cầu xin, khấn vái, mời gọi. Người Muslim, những người có đức tin nơi Allah và Thiên sứ của Ngài, tuyệt đối không được phép Du-a một ai (vật gì) khác ngoài Allah.
([4]) Hình phạt Kaffa-rah: Giải phóng nữ nô lệ, nếu không có khả năng thì phải nhịn chay hai tháng liền, nếu không có khả năng nữa thì phải bố thí thức ăn cho sáu mươi người nghèo.
([5]) Hajj được chấp nhận là Hajj được thực hiện theo đúng đường lối của Thiên sứ e và không phạm vào bất cứ điều tội lỗi và nghịch đạo nào.
([6]) Miqa-t là điểm để định tâm vào nghi thức Hajj hay Umrah. Miqa-t cho những ai đến từ xứ Sha-m là Juhfah (nằm phía tây bắc của Makkah), Miqa-t cho những đến từ Najid là Qarnul-Mana-zil (dãy núi phía tây Makkah), Miqa-t cho những ai đến từ Yemen là Yalamlam (dãy núi nằm ở phía nam Makkah) và Miqa-t cho những ai đến từ Madinah là Zhul-Hulayfah (nằm phía bắc của Makkah).
([7]) Hajj Tamattu' là dạng chúng ta sẽ Ihra-m làm Umroh trước trong những ngày của tháng Hajj, xong mới Ihra-m làm Hajj vào ngày mồng tám của tháng zhul-hajj. Dạng này thuận tiện và tốt hơn, bởi Nabi Muhammad e có di huấn:
« فَمَنْ كَانَ مِنْكُمْ لَيْسَ مَعَهُ هَدْىٌ فَلْيَحِلَّ وَلْيَجْعَلْهَا عُمْرَةً » (رواه مسلم).
“Ai trong các người không có con vật để giết tế thì hãy cứ tahallul và để nó thành Umrah" (Muslim)
([8]) Chủ nhà được phép đứng dậy để tiếp đón khi có khách đến, bởi Thiến sứ e đã làm như vậy, và cũng được phép đứng dậy để chào đón người từ xa mới về (mới đến) để chuẩn bị ôm mừng lấy nhau.
([9]) Sự bố thí được ân phước lâu dài như bỏ tiền xây Masjid, trường học, đường đi, nuôi người ăn học giúp ích cho đạo hay đời, hay những gì khác mang phúc lợi xã hội. Những thứ này sẽ mang lại ân phước cho người chết cho đến khi nào nó không còn hữu ích cho đời nữa.
([10]) Hadith là những lời nói, hành động, thái độ của Nabi Muhammad e sau khi nhận Lời mặc khải cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng.
([11]) Bid-'ah là sự đổi mới, cải biên, thêm bớt một điều gì đó trong một sự việc nào đó.
([12]) Jihad là sự đấu tranh cho chính của Allah.
([13]) 'I-nah là hình thức: Một người bán ghi nợ một thứ gì đó cho người khác đến một thời gian nhất định, y trao món hàng cho người mua sau đó y mua lại món hàng đó trước khi người mua trả tiền cho y với giá rẻ hơn bằng tiền mặt.
([14]) Phần tóm lược từ sách (Những chú giải cho bộ giải thích Attaha-wiyah) của học giả Alba-ni.
([15]) Istikha-rah là cầu nguyện Allah xin che chở khỏi điều dữ và ban sự an lành.
([16]) Một loại nhạc cụ gồm có một cái trống nhỏ nông đáy, gắn những vòng kim loại kêu xủng xẻng ở vành, người chơi lắc hoặc lấy bàn tay gõ lên trống.
([17]) Người đã lên giọng cao với từ “Chúng con không cự tuyệt".